Tình yêu của Hàn Mặc Tử
Nguyễn Viết Lãm
Nhà thơ Hàn Mặc Tử qua đời đã 50 năm, nhưng ánh sáng của ngôi sao ấy ngày càng rực rỡ trên bầu trời văn học của chúng ta. Thường những bậc thiên tài dễ bị người đời sau phủ quanh bằng huyền thoại. Ở trường hợp Hàn Mặc Tử, ông đã biến thành một nhân vật lúc thì ly kỳ, lúc lại dung tục quá xa với sự thật. Vở cải lương Hàn Mặc Tử vừa được chiếu hai lần trên màn ảnh truyền hình (do Đài truyền hình Cần Thơ xây dựng) là thí dụ điển hình của sự xuyên tạc một lịch sử chưa xa đối với chúng ta, hạ thấp nhân cách của nhà thơ lớn, xúc phạm đến danh dự của những người thân yêu của Hàn Mặc Tử hiện đang còn sống.
Nhà thơ Chế Lan Viên và tôi đến với Hàn Mặc Tử từ năm 1936, khi chúng tôi đang học trường Quốc học Quy Nhơn và bắt đầu làm thơ và viết báo. Trong bốn năm liền sống gần anh tôi hiểu về anh khá rõ, nhất là về những mối tình của anh.
Độ ấy, Hàn Mặc Tử thôi làm báo ở Sài Gòn về Quy Nhơn ở với mẹ, cũng chính là lúc anh vừa trãi qua một bi kịch lớn trong tình yêu. Đó là tình yêu đối với Mộng Cầm. Trong năm 1935, anh thường đi từ Sài Gòn ra Phan Thiết để gặp Mộng Cầm, cùng đi chơi với nhau thăm các danh lam thắng cảnh. Lầu ông Hoàng nơi hai người hay đến đã được Hàn Mặc Tử đưa vào thơ (Phan Thiết-tập xuân như ý). Chị Mộng Cầm lớn hơn tôi 5 tuổi, bạn học với tôi hồi ở lớp nhất tiểu học tại Quảng Ngãi, là cháu họ của chị Ngọc Sương và của nhà thơ Bích Khê, quê ở Thu Xà, cùng tỉnh. Mộng Cầm vào Phan Thiết, nơi có trường tư thục của cậu và dì. Đây là mối tình sâu sắc nhất của Hàn Mặc Tử, cho nên khi Mộng Cầm phụ bạc vì thấy anh mắc bệnh hiểm nghèo, anh rơi vào một nổi tuyệt vọng thê thảm:
Họ đã đi rồi không níu lại
Lòng thương chưa đã, mến chưa bao,
Người đi, một nửa hồn tôi mất,
Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ.
Toàn bộ ba chương trong tập thơ Đau thương của anh đều ghi lại nổi đau vô tận ấy. Có khi anh cố lẫn tránh hình ảnh thương yêu từng làm cho lòng anh tan nát, như câu thơ trong bài Trường tương tư, nguyên được viết: Mộng Cầm ơi… - đến lúc cho in, anh đổi lại là Lệ Kiều ơi, em còn giữ ý thơ.-Nhưng cũng có khi đau quá anh gọi thẳng tên người yêu như trong bài Muôn năm sầu thảm.
Nghệ ơi Nghệ muôn năm sấu thảm,
Nhớ thương còn một nắm xương thôi
(Nghệ là tên thật của Mộng Cầm)
Từ năm 1936, Mộng Cầm đi lấy chồng, không còn gặp Hàn Mặc Tử bao giờ nữa. Trong vở cải lương nói trên, có cảnh Mộng Cầm đến nhà Hàn Mặc Tử, cũng như cảnh Mộng Cầm đến bệnh viện gặp lại Hàn Mặc Tử, đều là những cảnh bịa đặt cả. Điều xúc phạm nhất ở đây là dựng lên cảnh hai dì cháu giành nhau để chiếm đoạt người yêu, với những lời nói dung tục. Thật là quá đáng!
Mai Đình cũng không bao giờ gặp Mộng Cầm tại nhà Hàn Mặc Tử. Chị quê ở Thanh Hóa, theo cha vào làm việc ở Phan Thiết. Năm 1937, chị ra Quy Nhơn tìm gặp Hàn Mặc Tử chỉ vì yêu thơ anh và thương anh sống trong nổi đau vừa về tinh thần vừa về cơ thể. Lúc ấy, nhà thơ của chúng ta đã bị bệnh phong rõ rệt, hai má có nhiều vết đỏ, lông mi rụng gần hết. Thời kỳ ấy ai cũng ghê sợ căn bệnh nan y này, chỉ những bạn thân của anh, mới đến với anh mà thôi. Mai Đình bất chấp cả hiểm nguy, vượt lên trên mọi dư luận, đã đến với Hàn Mặc Tử với một tình cảm đằm thắm đầy hy sinh. Lúc đầu, Hàn Mặc Tử không tiếp chị. Chị đã khóc, chưa biết bằng cách nào được gặp anh. Sau, Quách Tấn chuyển cho Hàn Mặc Tử bài thơ của Mai Đình, có đoạn:
- Còn anh em đã biết anh đâu,
Chỉ cảm vần thơ có những câu
Âu yếm say sưa đầy cả mộng,
Xui lòng tơ tưởng lúc đêm thâu…
Nhà thơ cảm động với tấm chân tình của chị. Mai Đình ở lại chăm sóc anh rất tận tụy, đem tất cả vốn liếng ít ỏi của mình để giúp đỡ anh. Thật là một mối tình thơ hoàn toàn vị tha và vô tư, một tâm hồn đẹp. Thời gian Mai Đình ở với Hàn Mặc Tử chỉ có mấy tháng chứ không phải tám năm như trong vở cải lương đã nói. Sau đó, vì những khó khăn riêng trong gia đình nhà thơ, chị phải từ biệt anh và không còn gặp nữa.
Mãi đến năm 1941, Mai Đình mới lên đèo Quy Hòa thăm mộ anh. Từ sau khi giã từ Hàn Mặc Tử, đời chị gian nan lắm. Năm 1941 trong buổi tôi nói chuyện về Hàn Mặc Tử tại thành phố Sông Cầu, chợt thấy chị bên ngoài cửa sổ, tôi hẹn chị ngày hôm sau xin gặp, nhưng chị không trở lại. Lòng tôi bâng khuâng không biết cuộc đời dành cho con người có tâm hồn đẹp đẽ ấy chút may mắn nào không. Năm 1955, tôi bất ngờ thấy Mai Đình trong sân sau cơ quan Hội văn nghệ Việt Nam, 51 Trần Hưng Đạo, Hà Nội, trước nhà Chế Lan Viên. Tôi vui mừng được biết chị đã có gia đình hạnh phúc, bản thân chị là chiến sĩ thi đua ngành ngân hàng Nhà nước.
Năm 1938, nhà thơ Bích Khê ra thăm Hàn Mặc Tử tại Quy Nhơn. Lúc ấy, bệnh phong đã cách ly nhà thơ lớn với xã hội, anh càng thấm nổi cô đơn. Bích Khê thương bạn, tặng anh một tấm ảnh Bích Khê chụp chung với Ngọc Sương, chị ruột mình, nói thêm rằng Ngọc Sương quý Hàn Mặc Tử lắm và rất khen thơ anh. Bích Khê thầm có ý muốn tạo cho Hàn Mặc Tử một nguồn an ủi mới, dù hoàn toàn trừu tượng. Ngày ấy, Ngọc Sương đã yêu anh Lạc Nhân, một nhà phiếm luận nổi tiếng trên báo Tiếng dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng. Chị không hề hay biết việc làm này của em trai mình. Nhưng Hàn Mặc Tử lại có tình yêu xa vời mường tượng đối với chị. Anh viết.
Ta đề chữ Ngọc trên tàu lá
Sương ở cung thiềm gió chẳng thôi
Tình ta khuấy mãi không thành khối
Như giận đòi phen cắn phải môi…
Bài thơ này chị Ngọc Sương chỉ biết khi được Mai Đình chuyển cho chị một năm sau. Hình ảnh chị bị xuyên tạc hoàn toàn trong vở cải lương nói trên.
Ngọc Sương chưa trực tiếp gặp Hàn Mặc Tử bao giờ, lại càng không có chuyện tranh giành người yêu với cháu mình để sau tuyệt vọng bèn đi tu thành bà phước! Tháng 8 năm 1990, tôi có dịp đến thăm chị tại thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay, với tuổi 78 và sau nhiều lần bị giam cầm trong nhà tù của Mỹ-Ngụy cùng với chồng vì hoạt động cách mạng nội thành, Ngọc Sương vẫn tinh lợi, yêu đời và tin tưởng. Con gái chị, Thu An, là trong mười một cô gái bị đày ra Côn Đảo được đưa về Hà Nội sau ngày giải phóng. Đầu năm 1940, nhà văn Trần Thanh Địch, bạn thân của Hàn Mặc Tử gửi từ Huế vào cho anh bức ảnh của Thương Thương cháu gái mình giới thiệu là người rất yêu thơ của Tử. Cô gái ngay thẳng dịu hiền ấy mới 12 tuổi em của Trần Tái Phùng, một trí thức gia đình nho phong ở Huế. Việc làm của Trần Thanh Địch mang ý nghĩa như việc làm của Bích Khê, thương bạn nên muốn tạo một tình cảm mờ ảo nào đó giúp cho bạn bớt nổi đau cô đơn. Nhưng đối với Hàn Mặc Tử, Thương Thương đã trở thành biểu tượng của một tình yêu thánh thiện. Chỉ trong vòng 6 tháng đầu năm 1940, anh đã viết liền 3 tác phẩm xuất sắc: tập thơ Cẩm Châu duyên (trước gọi là tập Thương Thương), hai kịch Thơ duyên kỳ ngộ và Quần tiên hội, anh dành cho cô thiếu nữ chưa hề gặp ấy một tình yêu đằm thắm. Cho đến lúc nghe tin gia đình Thương Thương trách cứ về chuyện này, Hàn Mặc Tử bỏ dở tác phẩm cuối cùng không viết nữa, dù anh Trần Tái Phùng viết thư khuyên anh tiếp tục hoàn thành bản thảo.
Về tình yêu của Hàn Mặc Tử, cũng cần nói thêm về mối tình đầu của anh, trước cả khi gặp Mộng Cầm. Đó là tình yêu tuổi hai mươi đối với Hoàng Cúc, con một vị Thương tá ở Quy Nhơn, một tình yêu trong sáng với một chút bâng khuâng thơ mộng chưa có gì sâu sắc. Hình ảnh Hoàng Cúc anh ghi lại trong tập thơ đầu của anh: Gái quê. Năm 1935, ở Sài Gòn về, biết Hoàng Cúc đã về Huế theo gia đình, Hàn Mặc Tử cảm thấy như một sự phụ tình, anh viết:
Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ
Em lấy chồng rồi kết ước mơ
Tôi sẽ đi tìm mỏm đá trắng
Ngồi lên để thả cái hồn thơ
Mối tình đầu này như gió thoảng, chưa thiết tha sâu đậm đến mức khổ đau như trong vở cải lương đã nói. Năm 1939, Hoàng Cúc gửi cho anh một chiếc bưu ảnh phong cảnh thôn Vĩ Dạ (Huế), khiến cho anh xúc động như là một hoài niệm. Anh viết bài thơ: Đây thôn Vĩ Dạ rất nổi tiếng. Có tài liệu cho rằng bài thơ này Hàn Mặc Tử viết trên tấm ảnh Thương Thương, thật ra bài thơ được viết năm 1939 sau khi nhận bưu ảnh kỷ niệm của Hoàng Cúc, còn Thương Thương bước vào đời thơ của Hàn Mặc Tử mãi tận đầu năm 1940.
Những mối tình của Hàn Mặc Tử trong cuộc đời khổ đau của anh vừa thực vừa hư, thực đến não nùng tuyệt vọng như đối với Mộng Cầm, hư như sương khói, mơ hồ như đối với Ngọc Sương và Thương Thương, nhưng tất cả đã để lại cho đời thơ của Hàn Mặc Tử những tác phẩm tuyệt vời trong nền văn học. Hiện nay, Mộng Cầm, Mai Đình, Ngọc Sương đều còn đang sống ở thành phố Hồ Chí Minh, Hoàng Cúc, Thương Thương đều ở Huế. Riêng chị Hoàng Cúc người phụ nữ đức hạnh ấy đã gửi thân vào cửa thiền từ rất trẻ. Đối với nhà thơ lớn ấy chúng ta cần hiểu đúng với sự thật của đời anh.
Nguồn: Nguyễn Viết Lãm, Tuyển tập H; 1997
NV/Đ 37.520
Chủ Nhật, 29 tháng 3, 2009
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Đổi
Trả lờiXóalều xông hơi
lều xông hơi tại nhà
lều xông hơi giá rẻ
lều xông hơi sau sinh