Thế giới kinh động của Hàn Mặc Tử
Trần Tuấn Kiệt
Nhà thơ với cuộc đời đau thương có một không hai này, tên thật là Nguyễn Trọng Trí. Sinh ngày 22-9-1912 ở Lệ Mỹ (Đồng Hới). Ông làm thơ từ thuở nhỏ. Lấy hiệu là Phong Trần và Lệ Thanh, trong những năm mười sáu tuổi. Vốn ở Qui Nhơn từ nhỏ. Cha mất sớm, nhà nghèo. Học đến năm thứ ba ở trường Qui Nhơn, kế đó mắc bệnh hủi, đưa vào nhà trường Qui Hoà rồi mất ở đây, ngày 11-10-1940.
Ông từng chủ trương tờ phụ trương văn chương báo Saigon mới đổi hiệu là Hàn Mặc Tử.
Đã đăng thơ: Phụ nữ Tân văn, Saigon, Trong khuê phòng, Đông Dương tuần báo, Người Mới.
Đã xuất bản : Gái quê (1936)
Thơ Hàn Mặc Tử (1959) gồm có: Thơ Đường Luật, Gái Quê, Đau Thương, Xuân Như Ý.
Tất cả các thi phẩm này được nhà xuất- bản Tân Việt in lại (1959). Càng ngày thơ Hàn Mặc Tử càng được phổ biến rộng và có nhiều người say sưa. Phần nhiều những người mê thơ Hàn Mặc Tử, lớp thanh niên ngày nọ... thường lê thê lếch thếch, ở các hè quán, dơ bẩn và điên loạn ... họ điên loạn để tỏ ra giống Hàn Mặc Tử, họ bày đặt đau thương khốn đốn, thơ thì dùng chữ cho sáo, cho kêu, tiếc rằng không tìm được một Hàn Mặc Tử thứ hai để cho mình chiêm ngưỡng.
Ngày nào còn bình tĩnh tôi chỉ thích đọc thơ Xuân Diệu, thơ Lưu Trọng Lư với những linh hồn sầu mộng muôn đời đó, cũng như những người làm thơ hôm nay... cái nhẹ và cao sâu của Trần Dạ Từ, Đỗ Quí Toàn và những bài thơ lục bát của Trần Đức Uyển vậy... nhưng, lúc tỉnh cũng như lúc điên... giòng thơ Việt với đôi hình sắc lạ thường rẽ thành hai nẻo... cùng hướng vọng về ân sủng của Thượng Đế, chỉ có Huy Cận ngày xưa, không cầu mong Thượng Đế điều gì, vì thi nhân mang cả cái linh hồn trần gian này mà trả lại cho Người. Nhưng đến lúc sầu hận điên đảo khôn nguôi, tôi tìm trở về với Ôn Như Hầu... với Chế Lan Viên... và nhất là với Hàn Mặc Tử. Thơ không vốn để vỗ về lấy đau thương của ai cũng không phải để nói lên cái đau khổ, mà để tạo lập một vũ trụ, một cõi mới lạ... điều đó có người bạn thơ tôi đã nói. Tôi đồng ý vì thật tình đã nghĩ như thế, nhưng còn thêm... cõi nào cũng vậy... tiếng nói của Loài Người cả đấy thôi... thì dù ở đâu, ở hoang đảo nào, ở một thế giới nào đi nữa, chúng ta vẫn cắm lều cô độc, chúng ta vẫn đến cái đỉnh chót vót của tâm hồn tẻ quạnh của ta và chừng đó hoặc là trở về cô độc, bằng thái độ sống, nếu không, thì chúng ta sẽ điên, điên như Chế Lan Viên, kinh dị như Hàn Mặc Tử và sau này trên một nguồn đó còn có nhà thơ Viên Linh với Hóa Thân xuất bản vừa rồi.
Nhà thơ đi lọc ánh sáng để gieo vần, đơn độc đắm mình trong suối ngọc cỏ thơm, trong niềm đau thương xô đẩy đến một thế giới trăng sao lộng lẫy. Thi ca là nguồn suối ở trên cõi siêu hình đảo lộn cả mọi suy tưởng đậm đà của tình nhân gian sầu mộng. Ở đó chỉ có linh hồn thi nhân và trân châu ngọc bích của Thượng Đế. Ở đó sự kỳ lạ được nhà thơ điểm vào óng ánh tinh khí, thực thể trở thành huyền hoặc lý lẽ cõi đời không có đất nẩy mầm, cõi điên loạn dị thường được soi trong cặp kính của một vì Sáng Thế, được gảy bởi cung đàn thiên tiên bất tuyệt.
Từ lắng nghe niềm đau thương vọt máu của sự tình đến khao khát ân ái của nhục thể từ lang thang cô đơn ở trong xã hội gọi là chỗ hợp quần nầy tương trợ và thông cảm nầy...rốt lại chỉ còn vò- võ từng đêm, hoảng hốt và đau buốt xương da từ đêm trong bệnh viện Qui Hoà. Từ cõi bị đày nầy, thi nhân xưa vẫn là người tiên ở thượng giới cho đến cõi đời tạm bợ đày đoạ nầy, rồi lại bị đày thêm lần nữa ở một vũng cô liêu cũ vạn đời...
Với niềm đau thương của Hàn Mặc Tử người đời còn có thể nhắc tới. Nhưng tiếc rằng nhắc tới để cảm thấy một cuộc đời rất là say đắm...rất là khốn cùng... rất là thơ mộng!!! Chứ nào ai đã cảm nhận một con người đó vượt khỏi cái âm – u, hoang lạnh của hư vô bủa vây trùng điệp... đen tối mịt mù như một thứ mê hồn trận. Những giờ phút tê điên hồn phách, sượng sùng xương da, ở giữa một căn nhà với ngọn nến, trông ra bốn bề đêm tối bủa vây, bãi tha ma hoang lạnh. Linh hồn kinh dị đến tột cùng, choáng ngộp cơ hồ nghẹt thở... đau đớn bốc dậy cùng từng sớ thịt, từng đường gân từng mạch máu, từng phút lo âu và khẩn nguyện.
Như một kẻ lâm vào ác mộng, vũ trụ quay cuồng, vang vọng đến tiếng gọi rợn người của tử thần rình rập. Cựa quậy khôn thoát, cuối cũng thể xác đành ngã gục... đành tê điên, đành tan rã, nhưng linh hồn Người đã đến một nơi cư ngụ bình yên..
Trong đời ta ít nhất là ta đã va chạm một lần với cái chết khủng khiếp, ta mê cuồng và thét gọi; ta điên đảo và bấu víu vào đời sống nầy một cách vừa bi thảm vừa run sợ. Ít nhất là như thế... ta mới cảm thông với một người trải nhiều ác mộng, luôn luôn thấy bàn tay lông lá của tử thần vươn đến chụp xuống đầu cổ, vò bóp xương da. Cuộc chiến đấu bất lực của con người với định mệnh ác nghiệt, cuộc chiến đấu giữa thể xác tanh hôi ghì kéo linh hồn chìm ngập trong đó, và ý chí thì bay vượt lên, điểm linh hồn với cõi trú ngụ mông lung mù mịt của thế giới trăng sao huyền hoặc của thơ Người.
Thơ Hàn Mặc Tử không nên đọc trong lúc bình tĩnh, vì nó sẽ dẫn ta vào chơi vơi hoang đảo trong đêm biển mù tăm. Nhưng lúc quá đau thương, ta vào cõi thơ của người để mà lảo đảo hít làn tinh khí của trăng sao, của hoa trái thanh tân, nhìn thấy ngất trời tinh đẩu, với nỗi đau đớn lạ thường , cảm giác lạnh tê. Ở đó , ta chịu nhập hồn ta vào cõi vô cùng nọ, ta cùng lùa ánh sáng như lùa một thứ tình mộng, như lùa những làn sóng trong ngần của bầu trời tinh mơ, của biển vàng rực rỡ. Ta sẽ vơi bớt nỗi đau đớn mà cảm thấy một hồng ân, bánh mật của thượng Đế. Và kẻ nào từ chối thứ bánh mật đó, từ chối mọi ân sủng thiêng liêng đó..., cũng đừng nên than vãn cõi đời ô trọc làm chi nữa, đừng tìm làm chi nữa hạnh phúc ở trong cõi trần này. Nếu có gan liền phó mặc với triều sóng thời gian đẩy ra khơi mãi thì đừng đọc thơ Hàn Mặc Tử nữa, sẽ tự dựng lấy một thế giớ riêng , ở đó mặc tình vùng vẫy.
Nói về thơ Hàn Mặc Tử, ngẫm nghĩ lại, mình không nói được gì cả...bao nhiêu lời từ trước đến giờ như là lá cây mục, như là cỏ khô... bởi vì thơ người, quá ư tràn trề ánh sáng, nhưng lúc tắm trong vùng ánh sáng nọ, thoát nó lại biến mất... lúc ta ngỡ thơ chàng là ánh sáng thái dương thì thơ chàng lại là vầng trăng thiên cổ... lúc ta ngỡ nắm được linh hồn, nắm được bản chất thơ của Người ở cõi đời này... thì thơ chàng đâu có ... mà ta cầm nắm đâu; vì:
Người thơ chưa thấy ra đi nhỉ?
Trinh bạch ai chôn tận đáy mồ.
Và chân lý mà ta thấy được ở tận cõi xa mù nào... không thể hiểu nổi nữa!
***
Nguồn trích: Phổ thông.- 1966.- Ngày 15 tháng 3 (Số 168) (2.273);
KHPL: BĐ.04(91)
Chủ Nhật, 29 tháng 3, 2009
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét