Con người Hàn Mặc Tử qua thơ anh
Tác giả: Nguyễn Minh Vỹ
Một văn hào nổi tiếng trên thế giới đã có một lời đầy triết lý, “muốn viết, phải biết mùi đau khổ”.
Điều kiện ấy, mọi chúng ta đều biết, Hàn Mặc Tử có thừa.
Chúng ta đau xót nhớ lại điều đó, nét đặc trưng của con người anh, của tâm hồn anh, của văn thơ anh. Lịch sử văn học của cả thế giới – không phải chỉ riêng ở nước ta – không hề có một trường hợp như anh. Nhà thơ mến yêu của chúng ta đã trãi qua quá nhiều đau khổ - trước hết cũng phải nói đến nỗi khổ chung của dân tộc thuở ấy đang còn là “Vong quốc chi nô” mà anh là một con người có tâm hồn yêu nước ngay từ thuở còn là thiếu niên, mang trong mình cái “gien” chung của mọi con người Việt Nam, lại được sự bồi dưỡng ngay từ lúc mới bắt đầu biết suy nghĩ, nhờ nhà chí sĩ Phan Bội Châu mà anh có may mắn làm quen và có quan hệ thơ văn thuở Cụ là “Ông già Bến Ngự”.
Nhưng điều đáng chú ý lại còn là nỗi đau khổ của riêng anh: Thân anh đã mắc phải một trong “tứ chứng nan y”, mà lại là thứ “nan y” nhất. Ác nghiệt hơn nữa là bệnh của anh làm cho người bệnh không sống được trong cuộc sống bình thường. Là một thanh niên đang độ đắm say trong cuộc “sống xã hội” mà bị cách ly với xã hội; yêu quý gia đình vô vàn, nhất là mẹ, mà phải cách ly với gia đình, với mẹ; Tha thiết yêu đương mà phải cách ly với cả người, người yêu chung thủy suốt cả đời, dù anh bệnh tật… Đau xót hơn nữa là đang tuổi xuân xanh tràn đầy sức sống, mà phải sống trong cái cảnh không biết sống chết ngày nào, thậm chí giờ phút nào, trong thân hình “tàn rữa” vì bệnh tật. Chung cuộc, một con người tài hoa, son trẻ, đang “độ xuân thì” mà phải lìa cõi đời khi mới hai – mươi – tám - tuổi!
Nhưng trong cái đau khổ riêng ấy, vượt qua tất cả các mức đau khổ của con người, anh vẫn ra sức phấn đấu để sống, sống mảnh liệt – Càng cảm thấy mình chết đến nơi, lại càng ra sức sống, càng sống một cái sống nồng cháy, nóng bỏng hơn, với hồn thơ của mình, với thơ của mình! Có thể nói là anh sống gấp bội lên trong tâm hồn
Trên cái thể xác đang chết dần mòn của anh! Trong cái cảnh một con người biết mình sắp chết, sắp trút linh hồn, anh cố gắng bằng … thơ!
“Một mai kia ở bên khe nước ngọt
Với sao sương anh nằm chết như trăng”
Thơ đối với anh trong những khoảng khắc ấy đã trở thành một nhu cầu sống, một liều thuốc cứu tử, cho riêng anh, và có thể nói là cho cả loài người! Để loài người hiểu thấu nỗi khổ đau dằn vặt của con người như anh.
Trong tình cảnh ấy những bài thơ, ý thơ của Hàn Mặc Tử những bài thơ mà tự anh anh thích gọi là “thơ điên, thơ loạn”, thực ra không điên loạn chút nào- trái lại đó là những bài thơ, văn, thể hiện một sức sống phi thường, thể hiện một lòng ham sống vô biên, thể hiện một ước mơ rất chi là “con người”: ước mơ được sống khi ý thức được rằng mình sắp chết, đang chết. Hơn nữa vì ý thức được mình sắp chết cho nên phải “sống gấp”, sống bằng thơ…
Thơ ra chưa khỏi bút
Giọt mực đã rụng rồi
Lòng tôi chưa kịp nói
Giấy đà toát mô hôi!”
Hoặc:
Tôi muốn hồn trào ra đầu ngọn bút
Mỗi lời thơ đều dính não cân ta
Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt
Như mê man, chết điếng cả làn da”.
Xin nói thêm ngay rằngkhi anh nói “làn da chết điếng” đó không phải là tưởng tượng mà là thực trạng của làn da của con người bị bệnh phung đang bị căn bệnh nó dày vò “chết điếng” thật!
Cho nên anh thiết tha cầu khẩn:
“Cứ để ta ngất ngư trong vũng huyết
Trải niềm đau trên mảnh giấy rung rinh
Đừng nắm lại nguồn thơ ta đang siết
Cả lòng ta trong mớ chữ rung rinh”.
Là “con người” được cái diễm phúc là lành mạnh, sống bình thường như mọi người, có lẽ ta khó cầm được nước mắtkhi đôc lại những lời đau thương, quặn quại của hồn thơ của con người hàn Mặc Tử!
Cho nên để hiểu thấu thơ anh, ta cố làm sao hiểu thấu được lòng anh, hiểu thấu được con người anh trong cái đau thương vô hạn của anh. Không phải vì anh là “lãng mạn, là siêu thực” mà vì anh là một con ngườiđau thương vô hạn…
*
Ta hãy bắt đầu bằng con người bình thường của anh. Thì nó cũng như con người của mỗi người Việt nam, mỗi thanh niên Việt Nam thuở ấy: sinh ra, lớn lên trong cảnh đất nước bị đọa đầy, dân tộc còn bị thực dân, phong kiến áp bức bóc lột, nhân dân còn đau khổ, có chí khí, tìm đường đấu tranh tháo gỡ xích xiềng nô lệ, noi gương truyền thống cha ông.
Trong thơ Hàn Mặc Tử anh cũng đã nói lên tinh thần đó, bằng những lời tho ngắn gọn nhưng đủ để ta hiểu lòng anh:
“Thương em không dám nghĩ
Đúng lúc nước nhà nguy
Mối thù tràn như song
Lòng nào anh nỡ si”
Nhưng tôi không muốn nói nhiều về mặt này mà muốn nói về nét riêng của thơ anh trong thời kỳ thơ anh “bung ra” với bệnh tình anh chớm nở và phát triễn đến hủy hoại dần thể xác anh, cướp mất anh, chỉ trong vòng ba bốn năm trong lúc- cho phép tôi vẫn nhắc lại – anh đang thời sung sức cả về thể xác lẫn tinh thần.
Để lộ hết tâm tình của người viết bài này, tôi xin thật thà kể lại rằng khi biết tôi định viết về Hàn Mặc Tử một bạn già thân quen dặn chừng tôi: “Này vừa phải thôi nhé. Đừng có như ai khi chê thì nhận đến bùn đen mà lúc khen thì đưa tận mây trời!”. Lời “răn đe” đó làm tôi hơi cụt hứng. Ở đời phải bốc lên một chút mới lý thú chứ, nhất là khi đi vào thơ văn. Nhưng ở đây tôi không làm nhà “phê bình” thơ, vì việc đó quá khả năng và ngoài nghề nghiệp của tôi. Tôi chỉ xin kể lại cuộc sống của con người hàn Mặc Tử trong thời gian chúng tôi cùng cộng tác với nhau trong “Thái dương văn đoàn” ở Quy Nhơn. Nhà hai chúng tôi lúc ấy ở gần sát nhau: anh sống chung với gia đình ở 20 còn tôi thì “Ăn cơm tháng” ở nhà bà con ngay số 24 đường Khải Định cũ. Về sau anh buộc phải sống riêng, tôi cũng đổi nhà, nhưng cũng ở Quy Nhơn thôi và liên lạc thường với anh. Xin thêm một chi tiết nhỏ nhưng quan trọng là một trong những người anh yêu và yêu anh - cả về con người và văn thơ – cũng là quen thân với gia đình tôi, cụ thể là với vợ chồng tôi: đó là Mai Đình.
Nhóm “Thái dương văn đoàn “ tập hợp một số cây bút ở Quy Nhơn, số lớn là trường Quốc học Qui Nhơn, tiếng Tây gọi là college, tập hợp người ở các tỉnh miền Nam Trung bộ và cả Nam Tây Nguyên. Xưng là Văn đoàn cho ra vẻ nhưng thực ra chúng tôi có cái mặc cảm của con người tỉnh lẻ, nhút nhát, rụt rè lắm. Có làm gì “nên nỗi” thì phải ở trung tâm lớn như hà Nội, Sài gòn, Huế, chứ còn ở tỉnh thì ăn thua gì? Nhưng chúng tôi đã tự giải quyết cho mình cái mặc cảm ấy. Ao ta thì ta tắm; biết đâu nước ao ta cũng gạn đục khơi trong được, nước ao nhỏ có khi dễ khơi trong hơn! Ì thế mà chúng tôi mạnh tay làm: Chế Lan Viên ra “Điêu tàn”, Hàn Mặc Tử “Gái Quê”, cả đám chúng tôi ra “Nắng xuân”: Xuân Khai (sau này là Yến Lan), Viết Lãm, Phú Sơn, Trọng Minh (là Vỹ tôi)… Thế là ngòi pháo đầu đã nổ! Làn điệu mới của Điêu Tàn, Gái Quê có tiếng vang khá xa và khá nhanh… Lòng tự tin của chúng tôi được nhen nhóm lên: thì ra tỉnh lẻ cũng đẻ ra “nhân tài” được.
Về Hàn Mặc Tử thực ra lúc ấy chúng tôi cũng chưa tìm hiểu gì về anh cho thật sâu sắc lắm. Nhưng anh lớn tuổi hơn cả trong nhóm chúng tôi, lại là nhà viết báo hẳn hòi trong một tờ báo lớn ở Sài Gòn! Tôi cũng không hề hỏi đến tên Thánh của anh, chỉ biết tên thật là Nguyễn Trọng Trí trong một gia đình mới, anh em trai gái lấy tên là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín và Hiếu nữa! Chúng tôi cũng không hề tranh luận với nhau về hữu thần và vô thần tuy tôi biết là gia đình “có đạo” và anh biết tôi là chính trị phạm mới ra tù, là cộng sản. Chúng tôi chỉ trao đổi ý kiến với nhau, thường là khá sôi nổi về vấn đề viết gì, làm gì để chống lại những thủ đoạn lừa mị của thực dân phong kiến lúc bấy giờ đang giả danh tự do, dân chủ để đẩy thanh niên nhất là ở các thành thị vào lối sống hưởng lạc, sa đọa, trong lúc chúng bị bắt buộc phải “thay gót sắt bằng góc cao su” vì do Mặt trận Bình dân ở Pháp thắng thế, phong trào trong nước ta dưới sự chỉ đạo của Đảng cũng đấu tranh thực hiện Mặt trận tổ quốc dân chủ, đẩy mạnh phong trào đòi dân chủ dân sinh(1)
Nhà báo Hàn Mặc Tử - nói thêm cho vui là ngày ấy trong nhóm chúng tôi mới chỉ có anh là “nhà” còn anh em khác chưa ra lều ra chõng gì cả - nộp cho chúng tôi một tiểu phẩm lấy tên là “Ông nghị gật”, bút danh là “ Trật Sên”, chế diễu trò hề bầu cử “ Trung kỳ nhân dân đại biểu viện” một cách khá sâu bén và ngộ nghĩnh, đúng lúc tại địc phương đang có phong trào vận động bầu người do ta đưa ra, chống lại người của chính quyền. Ai đã đọc bài ấy lúc bấy giờ và ngày nay nữa: nội dung, cũng như bút phápkhá sâu sắc! Chúng tôi cho vào tập Nắng xuân 1937 ngay.
Còn thơ? “Gái Quê” của anh cũng gây cho chúng tôi một ấn tượng rất sâu sắc về nội dung lành mạnh, thi tứ dồi dào và lời thơ… rất hay. Hẳn cho phép tôi trình bày cách đánh giá của riêng tôi về tập thơ đó trong cái trách nhiệm kiểu như “chính trị viên” của nhóm chúng tôi.
Hàn Mặc Tử của chúng ta là một dân thành thị - lại có sống và làm báo ở Sài Gòn nữa, nhưng sao hồn thơ anh lại hướng về nông thôn và thơ anh về người nông dân lao động nhẹ nhàng trong sáng gần như là một lời ca dân gian:
“Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Lòng Trí bâng khuâng sực nhớ làng
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”.
Thi sĩ đã mưu tả “cái” lao động nặng nhọc của cô nông dân trẻ trung sao mà thấy nhẹ nhàng, thánh thót như vậy? Và còn gì đẹp bằng những lời thơ như:
“Sóng cỏ xanh tươi gơn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi!”
Nghe nói trong các trường học của chúng ta các cháu học sinh ít biết về thơ Hàn Mặc Tử và các thầy cô cũng cho rằng giảng thơ Hàn Mặc Tử khó lắm. Nhưng những ý thơ, lời thơ như trên, không ít trong các tác phẩm đầu tay của thi sĩ, theo tôi nghĩ dễ cảm, dễ thương lắm chứ! Có cần phân tích thêm chăng là “cuộc chơi” của các cô “gái quê” của Hàn Mặc Tử là cuộc chơi tươi trẻ, lành mạnh, nên thơ của những chàng thanh niên và nàng thanh nữ lao động, đầy tình yêu lao động, tình yêu con người, chứ không phải là những cuộc hoan lạc của đám người sa đoạ trụy lạc ở thành thị đang bị mắc vào cái bẫy mà thực dânphong kiến thuở ấy gài cho họ để làm cho họ quên đi cuộc đời thực, quên đi nhiệm vụ đấu tranh cho lý tưởng tuổi xuân trong thời điểm ấy của lịch sử đất nước ta, dân tộc ta!
Thêm nữa: anh thanh niên Nguyễn Trọng Trí yêu nông dân, yêu quê hương tươi đẹp, cuộc sống thựccủa người lao động như thế và đang tuổi thanh xuân ắt đã nhìn trời nhìn đất, con người với một niềm lạc quan trong sáng mà thi nhân Hàn Mặc Tử không tiếc lời ca ngợi. Anh mơ xuân, anh “mừng xuân ra đời”, anh muốn “Tứ thời xuân” - thực ra thì không thực tế, nhưng ta hãy tha thứ cho hồn thơ của người thơ có khác con người bình thường của chúng ta – và xin mời các bạn hãy thưởng thức một số câu thơ của anh về xuân:
(1) Tôi không nói dài về điểm này tuy đây là một điểm rất quan trọng vì có lần tôi đã phân tích khá sâu trong một bài về thơ Chế Lan Viên (Tạp chí văn học tháng 1- 1988).
… Bao nhiêu mơ ước trong trần ấy
Như chực xuân về để lộ ra
… “Xuân đây rồi, lan tràn như bóng nắng”
Anh muốn:
“Sống mãi với muôn xuân đầm ấm”
Anh trách:
“Mùa xuân đến mà không ai biết cả!”
Anh kết xuân với thơ anh:
“Mùa xuân em sẽ rất nhiều hoa bướm
Bởi thơ anh tô điểm đẹp trăm chiều”
Anh reo lên khi:
“Xuân vờn trong ánh sáng
Hãy hoan hô, lời cao như sấm
Vạn tuế bay ơi, nắng rợp trời”
Anh tin tưởng:
“Mây hờ không phủ đồi cao nữa
Vì cả trời xuân tắm nắng tươi!”
Còn ai yêu đời hơn anh, còn ai yêu xuân, mê xuân như anh? Vá lời ca của anh vừa thực, cừa đẹp vô ngần…
*
Nhưng bỗng nhiên sao anh lại nói đến xuân với những lời như:
“ Ngày xuân hờ hững
Lòng xuân não nề…”
Xin lỗi bạn đọc, tôi lỡ lời. Không phải bỗng nhiên mà có duyên cớ - Duyên cớ đó, không phải là cái duyên cớ thường gặp và vì thường gặp nên bình thường thôi như bị người yêu phụ tình, ruồng bỏ chẳng hạn - Ở đời chán gì cái thứ “trắc trở” trong nhân duyên mà bao nhiêu nhà văn, nhà thơcủa tứ xứ, của muôn thuở, xưa nay, đã trút bao nhiêu mực cho đề tài ấy rồi!
Duyên cớ ấy là do nhà thơ tràn đầy sức sống của chúng ta mắc bệnh hiểm nghèo, chạy chữa nhiều nơi, nhiều thầy, nhiều thuốc mà không chữa được và có khi vì chạy quá nhiều thấy, nhiều thuốc mà bệnh quá trầm trọng, phát triển nhanh hơn… Điều đau đớn nhất là anh phải cách ly với xã hội, với đời… Ban đầu tì gia đình giấu anh trong một góc xép trong nhà (20 đường Khải Định) sau phải đưa đi sống riêng trong một túp lều tranh ở một động cát, ngoài bãi biển, sau phải đưa vào bệnh viện (Quy Nhơn) (bệnh viện thường) cuối cùng phải đưa vào “nhà thương phung Qui Hoà” - Bệnh anh càng nặng, càng phát triển nhanh và cướp mất đời anh…
Những lời thơ, ý thơ của anh trong thời gian đau khổ đến cực kỳ này, ta cố gắng thông cảm cho anh bằng cách đi sâu hơn nữa để gắng tìm hiểu tâm hồn anh. Nào trên đời xưa nay đâu phải có một mình anh là người bị bệnh phong (còn gọi là phung hay hủi) tuy nghe tên bệnh đã thấy rờn rợn người rồi! Nhưng Hàn Mặc Tử của chúng ta (trong đời thường là Nguyễn Trọng Trí, tên Thánh là Phêrô Phanxicô) có suy tư như những người bệnh thường không? Anh là thi sĩ, là người thơ…Anh đang tuổi xuân đầy nhựa sống! Con người anh đang vươn lên. Cuộc sống xã hội của anh cũng thật là phong phú. Đừng như ai nói là anh nghèo. Kể cả chuyện nghèo đói – không thật đâu - của anh vào đây làm gì? Phải thấy anh thuộc hạng người ít nhất là trung lưu của thời đại bấy giờ. Con công chức, có học không đến nỗi tồi, có làm báo, thu nhập ít nhất vào loại bình thường, có gia đình ở một căn phố, trên một đường phố lớn ở một thành phố thuộc loại vừa thuở ấy. Nói đến túp lều tranh là túp lều anh phải ở riêng vì mang bệnh! Khi anh kêu đói, thơ anh có câu nổi tiếng- nay ghi lên bia mộ anh ở Gành Ráng (Quy Nhơn):
Trời hỡi! Nhà ai cho khỏi đói
Gió trăng có sẵn làm sao ăn?”
Ta cũng không nên hiểu chữ đói trong thơ anh một cách thô thiển bình thường để cho có “lập trường” – Hàn Mặc Tử đói là “ Đói trăng, đói gió…”. Nếu muốn tô đậm niềm đau khổ của anh , phải hiểu chiều sâu tâm hồn anh, chứ không nên hiểu đơn giản như có người hiểu…
Cái “đáng thương” nhất ở anh là “thấy” được bệnh mình phát triển, “thấy” được cái chết sắp đến, sẽ đến với mình, “thấy “ được anh sẽ “trút linh hồn” không thể nào cưỡng được.
Cái đáng thương và đáng quý nữa ở anh là trong khi “thấy” được mình sắp chết, “thấy” được xác thịt mình ngày đang tan rữa, ngày càng tan rữanhưng anh vẫn cố sống, có một sức sống phi thường, thậm chí anh đã diễn đạt suy tư của anh một cách “phi lý”: “Không xác thịt, chỉ có linh hồn đang sống”.
Nhưng Hàn Mặc Tử của chúng ta “sống” không có nghĩa là còn ăn, còn sống, còn ngủ, còn thở như một người sống theo lý tưởng của con người Hàn Mặc Tử, “người thơ” - Đọc thơ anh từ lúc bệnh tình càng tăng lên, giây phút lìa đời gần kề, dù lời thơ có lâm ly, có kinh dị, như thét, như gào, như rú lên… Ta càng thấy đó là sự phản ứng mảnh liệt của tâm hồn anh trước cái chết, để cố đẩy lùi cái chết của thể xác, bù lại cái sắp tiêu tan của thể xác bằng cái sống của tâm hồn. Thơ anh trong những phút giây sẵn sang đón chờ cái chết này có những lời nghe “kinh dị” thật đấy nhưng tự anh đã nói đúng cái đau khổ của tâm hồn anh, nói đúng cái đau khổ của thể xác anh, đau khổ cực kỳ, đau khổ hết mức.
Khi anh viết:
“Thịt da tôi sượng sần và tê điếng
Tôi đau vì rung rợn đến vô biên”
Tôi nghe như là lời “khai” bệnh của bệnh nhân với thầy thuốc - thịt da anh “sượng sần” thật, “tê điếng” thật, anh “rùng rợn đến vô biên” thật trước bệnh tình của mình bằng thơ?
Khi anh viết:
Tôi muốn vớt ai ra ngoài song điện
Để nhìn xem sắc mặt với làn da”
Ta hãy mường tượng đến “sắc mặt” và “làn da” của người mang bệnh như bệnh anh mới hiểu hết tâm hồn anh, nỗi đau khổ của anh khi “nhìn thấy” sắc mặt và làn da của mình ngày một khác đi, biến dị đi.
Hoặc khi:
“Anh đã thoát hồn anh ngoài xác chết
Để chập chờn trong ánh sáng mông lung”
Thì cái đau khổ nhất của anh là:
“Máu đã khô rồi, thơ cũng khô
Tình ta chết yểu từ bao giờ…”
Cho nên anh không chịu để cho “thơ khổ” và còn nhắn lời cho bạn thơ tâm đắc nhất của anh, thi sĩ Chế Lan Viên:
“Ta không muốn người thôi ca hát
Vì luôn đêm song hận réo cung Hằng”
Và anh cười:
“Lá đổ rào rào
Trăng vàng lao xao
Chuỗi cười ha hả
Trên cánh đồi cao”
Nghe tiếng cười ta càng thương anh vì thật ra anh cố phấn đấu với bản thân, có thể nói là tự dối mình vì thực ra ở một bài thơ khác anh phải thú nhận:
“Này đây nước mắt giọng cười theo nhau”
Vì làm sao cười nổi trong tình cảnh ấy?
Làm sao còn chơi được với trăng, tuy trước đây anh say sưa biết bao với xuân ấm, với ánh nắng mặt trời?
Trong thơ, ở đoạn cuối của đới anh, đầy trăng và trăng! Sau đây, nghiên cứu kỹ hơn nữa về thơ anh, có lẽ chúng ta nên đánh dấu thời gian của từng bài để thấy ở từng bài, vào thời điểm nào “hơi thở” của anh thế nào, nhịp đập của tim anh - tiếng nói của “lòng” anh có khi nó “thơ” hơn chăng- thế nào, cả sức đề kháng của não cân anh ra sao và ôi! lại phải kể đến thể xác của anh, tay, chân, mặt mày, da thịt của anh bị thần chết gắm nhặm, ăn dần, ăn mòn đến đâu? Và ở mỗi lúc càng đi đến gần cái chết “ thế nào” ngày càng rõ ấy thì lúc đó, lời thơ anh thế nào?
“Hãy mường tượng một người thơ đang sống
Trong im lìm, lẻ loi trong dãy động - Cũng hình như em hỡi động huyền không
Mà đêm nghe tiếng khóc ở đáy lòng
Ở trong phổi, trong tim trong hồn nữa”
Thì tôi nghĩ là anh viết khi đã “bị” câu thúc ở trong “nhà thương phung Qui Hoà” rồi hoặc cũng có thể là chưa vào Qui Hoà nhưng ở một túp lều trên động cát, dưới những hàng cây mà đêm đến trăng lung linh trên biển, biển lung linh dưới trăng, cành cây lấp lánh ánh trăng, “trăng bay lả tả ngủ trên cành vàng…”
Vì ác nghiệt thay cho nhà thơ đang bệnh nặng là cái cảnh Qui Hoà đẹp lắm! Và đã vào đây rồi, với tâm hồn anh, tri kỷ chỉ còn là trăng, anh chỉ còn tâm sự được với chị Hằng, anh say trăng, ngắm trăng trên biển, anh “rược trăng” trên ngọn đồi, anh ngủ với trăng, anh nhìn “người trăng ăn vận toàn trăng cả”, anh “chơi trên trăng”, anh thấy “trăng tự tử”… Ở đây tôi muốn nói ý riêng tôi mà tôi cho là không đúng nhưng tôi xinphép cứ nóilà trong tình hình đau khổ cả thể xác và tâm hồn như anh thỉ anh tự tử, ta có thể hiểu được – Nhưng trái lại, anh “nhảy ùm xuống giếng vớt trăng lên” - để trăng khỏi chết vì trăng tự tử!
“Tiếng gà gáy rụng trăng đầu hạ
Tôi hoảng hồn lên, giận sững sờ”
Có thể ai đó đã làm một luận văn riêng vời đề tài Hàn Mặc Tử viết về trăng! Luận văn ấy chắc sẽ dài, dài lắm và thử so với nhiều nhà thơ kim cổ, đông tây đã viết về trăng để xem ai thèm trăng, khát trăng, đói trăng, ai có cảm xúc để vịnh trăng như anh? Chắc không phải dễ, nếu không nói là khó ghi được hết ý anh và chính anh cũng không hiểu hết anh:
“Té ra ta vốn là thi sĩ
Khát khao trăng gió mà không hay
Còn một tình riêng của anh? Tôi sợ tham lam quá nên cũng chỉ nói qua một ý: anh thương, anh nhớ, anh giận, anh nhen, anh mơ màng mộng mị về người yêu cũng không phải như con người bình thường thất tình vì bị phụ tình mà anh ở trong một trạng thái tâm hồn khác thường vì tha thiết yêu, được yêu nhưng – ta đã nói rồi , vì bị bệnh nên phải sống cách ly; lại là một người thơ đa tình đa cảm, tình cảm dồi dào, tràn đầy đến nỗi bạn lừa mình, dối mình để an ủi về một người yêu “không có thật”, nhưng có cái tên đẹp làm sao! Thương Thương – Anh tuởng thật, đóng kịch với người yêu không có trên trần gian ấy, trong lúc con người yêu mình …Người bình thường đau khổ vì tình yêu không được đáp lại là khác là Hàn Mặc Tử trong hoàn cảnh riêng của mình nhất định phải khác hơn nhiều, phải điên, phải “loạn” vì những mối tình mà có khi anh gọi là “vô duyên” ấy.
Tóm lại, con người Hàn Mặc Tử khác mọi con người khác, nhà thơ Hàn Mặc Tử có tâm hồn, có hồn thơ khác… Anh là người gốc đạo Thiên Chúa giáo cho nên không lạ gì trong cái tính và cái cảnh của “nhà thương Quy Hoà” anh viết “Đêm xuân cầu nguyện”.
“Đế vừa dâng vừa hiệp bốn mùa xuân
Nở một lượt giàu sang hơn Thượng đế”
anh kêu lên “Thánh nữ đồng trinh Maria” Bằng:
“Giòng thao thao bất tuyệt của nguồn thơ
và “cầu nguyện”:
Cho tình tôi nguyên vẹn tợ trăng rằm
Thơ trong trắng như một khối băng tâm
Luôn luôn reo trong hồn, trong mạch máu
Cho vỡ lở cả muôn ngàn tinh dấu
Cho đê mê âm nhạc, và thang lương”
Ta thông cảm với tâm hồn anh, với giấc mơ anh với lòng tin của anh, rất là con người: được sống, sống để làm thơ ngợi ca cuộc sống dù có đau thương lâm ly, dù có sắp trút linh hồn thậm chí khi anh tưởng tượng đã thoát khỏi thể xác, chỉ còn sống với linh hồn, để làm thơ…
*
Tôi đã viết khá dài về Hàn Mặc Tử nhưng vẫn thấy nói chưa đủ, nói chưa hết, chưa hiểu thấu tâm hồn anh, chưa nói được đúng mức sức sống của tâm hồn để thắng cái chết uy hiếp trong từng giây phút nhưng cuối cùng phép lạ vẫn không làm gì nổi để giành lấy, giữ lấy tâm hồn anh bị cơn đau về thể xác cướp đi đúng độ tuổi xuân xanh.
Trước đây ba năm. Năm 1988, nhân dịp đi Quy Nhơn có việc riêng, tôi đã đến viếng mộ anh ở Gành Ráng – Tôi thấy, lại một điều khiến tôi càng thương anh, tiếc anh đến thắt ruột – khu vực Quy Hoà (phía ngoài nhà thương phung) đang được xây dựng thành khu du lịch nhờ cảnh non nước hữu tình như tôi đã nói ở một đoạn trên. Tôi có hỏi anh em địa phương là địa thế một khu du lịch gần một khu bệnh viện đặc biệt như thế có làm cho du khách ngại ngùng không? Anh em cho biết là không can ngại gì vì khu bệnh viện và khu du lịch tuy cùng “địa danh” nhưng không phải ở gần nhau lắm. Anh em lại phân tích thêm rằng: vả chăng ngày nay “khoa học” đã cho biết bệnh phong không “lây” đâu và “khoa học” ngay ở Việt Nam cũng đang nghiên cứu đề phòng ngừa và chữa trị cái chứng “nan y” đó… Và anh em chỉ cho tôi xem một số bà con ở đây, ngay là bệnh nhân được chữa lành và còn sống tuy hình hài không còn được bình thường trở lại như cũ – Có người trở về quê cũ, nhưng không ít người đã xây dựng gia đình - giữa những người đồng bệnh với nhau – và xin đất làm nhà ở ngay tại chỗ, sinh sống bằng cách riêng mà địa phương có điều kiện, phổ biến là chặt củi trong rừng cây gần khu vực bệnh viện, chiều chiều gánh hay vác cho bà con ngoài phố đến mua.
Bất giác tôi tự hỏi: sao hàn Mặc Tử của chúng ta lại không được chữa lành như người khác nhỉ?… Để có thể sống thêm, không mong đến ngày nay mà 5, 3 năm nữa, chỉ ít vài ba năm nữa thôi tính theo thời gian lúc bấy giờ, cũng được, thì kho tàng văn học của ta được giàu thêm, với những tác phẩm khác nữa! Những tác phẩm khác nữa mang dấu ấn độc đáo của “người thơ” giàu sức sống như anh, thơ của một tâm hồn đau khổ luôn muốn vươn lên, bay cao, thoát ra khỏi một thể xác bị huỷ hoại từng giờ, từng phút, thơ càng nở rộ khi bệnh tình càng phát triển! Thơ anh phải chạy đua với thời gian, thách đố với bệnh tật, thách thức với Thần chết ở ngay trong con người anh, lăm le muốn cướp lấy hồn anh.
Để thương nhớ anh, tôi lại xin nhắc đến lời cũa một triết gia xưa nhưng vận dụng vào đời anh rất là phù hợp: “Cái chết không có ý nghĩa gì khi người ta, khi “con người” đã hoàn toàn sự nghiệp của đời mình”.
Dù căn bệnh ác nghiệt đã cướp đi cuộc đời quá ngắn ngủi của anh, anh đã đóng góp cho đời một sự nghiệp rất qúy giá, anh không những đã hoàn thành mà hoàn thành vượt mức sự nghiệp của đời anh.
Vì vậy, Hàn Mặc Tử anh ơi, anh vẫn “trường thọ” với thơ anh:
“Ta sống mãi với trăng sao gấm vóc
Trong nắng thơm, trong tiếng nhạc thần bay!”.
Nguồn trích: Nha Trang.- 1992.- Tháng 1-2 (Số 10) (1353);
KHPL: BĐ.04(91)
Chủ Nhật, 29 tháng 3, 2009
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét