Bài thơ cuối cùng của Hàn Mặc Tử
Phan Cao Toại
"Mai sau, những cái tầm thường mực thước kia sẽ biến tan đi,
và còn lại ở cái thời kỳ này chút gì đáng kể, đó là Hàn Mặc Tử ".
(Chế Lan Viên)
Trong các nhà thơ tiền chiến, Hàn Mặc Tử ở vào một hoàn cảnh rất đặc biệt: Ông mắc bệnh phong vào khoảng 1930, phát bệnh năm 1936 và mất ở nhà thương phong Quy Hòa (Quy Nhơn) ngày 11/11/1940.
Trước năm 1941, năm các nhà khoa học tìm ra DDS, một loại thuốc đặc trị bệnh phong, bệnh này được xếp vào một trong tứ chứng nan y. Do những tổn thương bệnh làm lở loét tứ chi, mặt mũi sần sùi trông rất gớm ghiếc, người đời mặc cảm với những người mắc bệnh phong, tìm cách xa lánh họ. Hàn Mặc Tử cũng rơi vào tình trạng như vậy. Năm 1936, khi kỳ lưng cho Tử, mẹ ông chợt phát hiện trên lưng con mình có những đám màu hồng nhạt. Hỏi, Tử cho biết một đêm đi chơi với Mộng Cầm, khi về bị trời mưa, và trên đường lại qua một khu mả mới. Tưởng rằng Tử bị mề đay, cả nhà không ai để ý. Những mảng đỏ trên da cứ ngày một lan rộng và sau đó hai dái tai cũng bị sưng đỏ. Căn cứ vào những mô tả của ông Nguyễn Bá Tín, em ruột của nhà thơ hiện đang sống ở Nha Trang thì những thương tổn như vậy là những dát phong, tương đương giai đoạn BL của bệnh phong. Đi khám thầy thuốc bắc, thầy bảo bị phong (một chứng ngứa thông thường) và cho uống thuốc tễ. Bệnh của Tử vẫn không thuyên giảm. Thương con, mong cho con mau khỏi bệnh, bà mẹ của Tử đưa con đến khắp lượt các danh y trong vùng. Các thầy thuốc bắc thời bấy giờ có quan điểm rất lạ: lấy độc trị độc nên đã cho Tử uống các loại thuốc có nọc rắn mai gầm, nọc rắn hổ mang. Trước đó, khi từ Sài Gòn về, tử đã nhận lời làm biên tập cho tờ "Phụ nữ Tân văn" nên rất nóng lòng trở vào nhận việc. Chính vì vậy, Tử đã uống gấp đôi, gấp ba liều quy định. Có khi uống xong mặt mày xây xẩm, ngã lăn xuống đất. Các loại nọc rắn có độc lực rất mạnh đã làm hỏng gan và thận và cuối cùng, Hàn Mặc Tử được đưa vào điều trị ở Quy Hòa (21/9/1940). Hồ sơ nhập viện mang ký hiệu 1134 còn ghi rõ: bệnh nhân Nguyễn Trọng Trí (tên thật của nhà thơ), chẩn đoán lúc vào: Lèpre bacteriloriquement confirmé (phong thể nhiều vi khuẩn) và lúc ra: Tử vong vì kiết lị.
Tử đến Quy Hòa vào một sáng mùa thu chớm lạnh. Hành trang chẳng có gì, trong túi không một đồng xu. Tử mặc bộ quần áo bà ba trắng đã cũ, đi đôi giày ba ta sờn, đội chiếc khăn bông trắng dài quá lưng, chừng như sợ lạnh. Các nữ tu người Pháp đón Tử với một tình cảm thương mến. Soeur Juetta, người làm việc lâu năm ở đây đã tự tay trải giường cho Tử nằm, pha sữa cho Tử uống. Mẹ Marie de la Resuression, giám đốc nhà thương nhận hồ sơ từ bệnh viện Quy Nhơn chuyển đến, bố trí cho Tử nằm ở giường số 3 khu nhà lá tập thể đối diện với nhà thờ. Ở đây Tử đã sớm làm quen với những người bạn cùng cảnh: anh Nguyễn Văn Xê (mới mất năm 1993), anh Nguyễn Văn Trung có quán tạp hóa nhỏ dành cho người bệnh và hai người Pháp cũng bị bệnh phong ở nhà bên cạnh. Anh Xê kể lại rằng, lúc đó không ai biết Tử là nhà thơ, là người có học nhưng do Tử rất hiền lành nên ai cũng mến thương Tử. Anh Xê còn cho biết thêm, Tử giỏi tiếng Pháp nhưng không khi nào dùng tiếng Pháp để nói chuyện với các soeur. Cho đến một hôm, người giúp việc cho Tử - em Hành - đưa đồ ăn từ Quy Nhơn vào mang theo cuốn sách cũ, cuốn Deux centmorceaux de poemes 'd auteurs Francais (hai trăm bài thơ của các tác giả Pháp), Xê hồ nghi và cằn nhằn: "Anh biết tiếng Pháp sao cứ bắt tôi làm thông ngôn hoài !". Tử cười: "Anh em mình cả mà, ai nói mà không được !". Trong thời gian Tử nằm điều trị ở Quy Hòa, anh Xê cho biết, ngoài em Hành, không có ai vào thăm. Có lẽ bây giờ người đời ghê sợ và xa lánh bệnh nhân phong.
Tình trạng của Tử lúc ấy rất bi đát: "Hai mắt nằm lọt vào hai lỗ hõm sâu hoắm đến không còn mở ra được. Thân hình chỉ còn da bọc xương, chân tay co rút mà đầu tóc bù xù rối trết lại, trong đó nhô nhúc những chấy là chấy (Thư của anh Nguyễn Văn Xê đề tại Quy Hòa ngày 25/3/1941)".
Với thực trạng như vậy, việc sáng tác của Hàn Mặc Tử rất khó khăn. Ông có viết thư cho gia đình và bạn bè. Qua nét chữ xiêu vẹo, người ta thấy được thảm cảnh của Tử lúc ấy.
Sau một thời gian điều trị khoảng ba tuần lễ, nhờ sự chăm sóc của các nữ tu dòng Franciscain đặc biệt đặc biệt nhờ sự tận tình chăm sóc của soeur Juetta, sức khoẻ của Tử khá lên rất nhiều. Tử đề nghị các soeur cho tiêm thuốc Huille de moogra ethereé, loại dầu chế từ hạt đại phong tử, do bác sĩ Gourvit, giám đốc bệnh viện Quy Nhơn chế.
Tiêm được một mũi chừng một phần ba phân khối, Tử cảm thấy rất mệt, kèm theo sự rối loạn hấp thu do tì vị bị hư hỏng, Tử bị kiết lỵ, cơ thể suy sụp rất nhanh chóng buộc các soeur phải đưa vào buồng biệt lập. Tử lường được sức, chuẩn bị cho mình một cái chết thanh thản. Một hôm, soeur Julien đến thăm Tử. Biết Tử không qua nổi, nhiều người bệnh quanh đó lo lắng theo dõi từng cử chỉ của soeur. Souer Julien có tài chẩn bệnh bằng cách bắt mạch. Khi thấy souer chau mày, lắc đầu, mọi người đều thất vọng. Linh mục Nicola Cận được mời đến xức dầu và làm phép giải tội cho Tử. Tử không chịu nằm mà quỳ xuống dưới chân cha. Cha khẽ đỡ Tử dậy và bảo: "Con ngồi". Tử khẽ gật đầu: "Dạ" và đây là lần xưng tội sau cùng.
Những giờ phút cuối đời của Tử, anh Xê thường có mặt bên cạnh. Đêm 8/11/1940 đến ca trực đêm của anh Xê, Tử đột ngột ngồi dậy lấy trong chiếc áo gối mang theo từ nhà hai tập giấy đánh máy mỏng rất đẹp và hỏi anh Xê: "Anh Xê có tình yêu chưa ?". Xê trả lời: "Tôi từ nhỏ tới giờ chỉ có tình yêu với Thiên chúa". Tử nói tiếp: "Đây là gia tài của tôi, xin tặng anh tập thơ Cầu Nguyện" và lấy bút chì trong túi áo ra ghi dòng chữ: thơ Cầu Nguyện đề tặng anh Xê - Francois Trí. Đó là tập thơ đánh máy trên giấy poluya mỏng, chữ không có dấu. Anh Xê phân vân: "Không có dấu làm sao tôi đọc được ?". Tử: "Để khi nào mạnh tớ thêm dấu cho". Tử vẫn lạc quan, tin yêu cuộc sống ngay cả khi thần chết đã đến gần kề.
Đặc biệt, trong 51 ngày ở Quy Hòa, do sức khỏe bị suy kiệt, Tử chỉ viết một bài thơ văn xuôi, viết bằng tiếng Pháp có nhan đề: " La purté de âme" (sự trong sạch của tâm hồn). Bài thơ được viết trên giấy ca rô kẻ nhỏ với cây bút chì cùn dài non đốt ngón tay và tuyệt nhiên không một dấu tẩy xóa, không một lỗi chính tả nào. Ngờ đâu, đó là tác phẩm cuối cùng kết thúc cuộc đời tài ba sau hơn mười hai năm cầm bút. Bài thơ được viết vào những đêm khuya, khi những người bệnh đã ngủ. Cuối bài thơ có ghi rõ ngày tháng trong đó có một đoạn như sau:
Pureté de I âme
...Anges du Ciel, Anges du Dieu
Anges de Paix et de Gaieté
Lancez-vous des roses et des nénupherds
des chant mélodieux et des notes enbaumeés
et versez avec effusion les vertus, le courage
et labonheur parmi les servantes de Dieu
Nuit de Mercredi 24 Octobre 1940
Tạm dịch:
Sự trong sạch của tâm hồn
Hỡi Thiên thần của Trời, Thiên thần của Chúa,
Thiên thần của Hòa bình và Hoan lạc,
Xin hãy ném cho nhau những đóa hoa hồng, hoa súng
Những điệu hát reo rắt và những nốt nhạc thơm tho
Và hãy xin tưới trút cho tràn trề nào là đức hạnh,
Can đảm và hạnh phúc cho những vị nữ tu của Thiên chúa.
Đêm thứ tư, 24/10/1940
Francois Trí.
Đây là bài thơ Tử viết tặng các souer, những ân nhân, những người mẹ, người chị của mình ở Quy Hòa. Sau khi Tử mất, người ta tìm được trong túi áo ngực của Tử và trao lại cho các souer.
Suốt thời gian ở Quy Hòa, Tử vận động rất khó khăn, phải có người dìu hai bên nách mới ra được chỗ ăn cơm. Mặt khác, da tay bị cứng lại, cầm bút rất khó. Đây là thời kỳ khủng hoảng trong sáng tác vì Tử hàng ngày hàng giờ phải đối mặt với thần chết. Có được một bài thơ như vậy là một nỗ lực phi thường của Tử. Tiếc thay bài thơ đó lại không được những người làm tuyển tập thơ Hàn Mặc Tử chọn vào.
Trải qua bốn năm vật lộn với bệnh tật, tử phải chịu nỗi đau đớn cùng cực cả thể xác lẫn tinh thần. Dù được các souer tận tình cứu chữa nhưng do cơ thể suy kiệt, Tử đã lặng lẽ qua đời lúc 11 giờ sáng ngày 11 tháng 11 năm 1940.
Gia đình ở xa, bạn bè ở xa, không một ai đến đưa đám, không ai thắp một nén nhang hay một vòng hoa tưởng niệm trên mộ Tử. Chỉ có các souer, những người bạn bệnh cùng thời theo sau chiếc xe tang phủ vải đen và những lời cầu kinh vĩnh biệt.
Than ôi, Hàn Mặc Tử thiên tài đã vĩnh biệt chúng ta khi tuổi đời 28. Sự bất lực của y học thời bấy giờ đã cướp đi sự sống của nhà thơ. Hàn Mặc Tử không phải chết vì bệnh phong mà vì sự sai lầm của những ông lang băm dốt nát. Ngày nay, bệnh phong không còn là chứng nan y và với quyết tâm của ngành y tế, bệnh phong sẽ được thanh toán vào năm 2000. Ở Quy Hòa, nơi Hàn Mặc Tử nằm điều trị và viết bài thơ cuối cùng hiện có một phòng lưu niệm về nhà thơ tài ba nhưng bất hạnh này.
Nguồn trích: Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh.- 1998.- Số 10 (Ngày 9 tháng 4) (1.594);
KHPL: BĐ.04(91)
======================================
--------------------------------------------------------------------------------
Nhớ Hàn Mặc Tử
Nguyễn Viết Lãm
Giữa những năm ba mươi, nhóm thơ Quy Nhơn từ Thái Dương văn đoàn ở Bình Định mở rộng, bao gồm cả các nhà thơ đang sống hoặc đang học ở trường Quốc học Quy Nhơn, tụ tập họp lại để giúp đỡ nhau sáng tác, gần gũi yêu thương nhau, vì hầu hết những người trong nhóm đều thuộc tầng lớp nghèo cả. Ngày ấy, cũng từ Quy Nhơn ra, nhưng các anh Xuân Diệu, Nguyễn Xuân Sanh đều đã rời trường ra Huế và Hà Nội, anh Phạm Văn Ký thì sang Pháp trước đó. Nhà thơ và nhà bác học Bùi Văn Lãng chỉ chuyên dịch thơ cổ điển Việt Nam sang Pháp văn nên ít có quan hệ với anh em "thơ mới'. Chế Lan Viên và tôi đang học năm thứ hai trường Quốc học. Yến Lan vẫn thường ở trên thành Bình Định, thỉnh thoảng mới xuống thành phố. Lớn tuổi hơn chúng tôi lúc ấy có Hàn Mặc Tử và Hoàng Diệp. Cả hai anh đều là nhân viên ngành Đạc điền trong một thời gian ngắn và đều đã làm thơ trước chúng tôi khá lâu. Hoàng Diệp là bạn của anh Thanh Tịnh, cùng quê Thừa Thiên. Nổi bật trong nhóm thơ chung là Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên.
Tôi được gặp Hàn Mặc Tử vào giữa năm 1936, nhưng tên tuổi của anh đã được thành phố, đặc biệt đối với anh em học sinh, biết rộng rãi từ lâu. Thầy dạy văn của chúng tôi là giáo sư Trần Cảnh Hảo (ông đồng thời là người dạy văn của nhiều thế hệ học sinh sau này trở thành nhà văn, nhà thơ có tiếng trong nước). Thầy nguyên là một nhà nho, từng đi thi hương, sau mới học Cao đẳng sư phạm Hà Nội, có ảnh hưởng lớn đối với chúng tôi. Chính thầy Hảo là người đầu tiên nói với tôi về anh Hàn Mặc tử, vì năm 1933 Hàn Mặc Tử tuy tuổi còn rất trẻ đã cùng với thầy Hảo và nhiều trí thức tiêu biểu khác tham gia giám khảo cuộc thi thơ ở Quy Nhơn. Thời bấy giờ, việc cụ Phan Bội Châu xướng họa thơ và khen phục tài thơ của Hàn Mặc Tử đã tạo cho anh một tiếng vang lớn trong xã hội.
Hàng ngày đi học, tôi qua trước hiên nhà Hàn Mặc Tử, một dãy nhà nhiều gian, thấp nhỏ của nhiều gia đình cùng thuê ở gần Ngân hàng Pháp Hoa. Một ngày chủ nhật, Chế Lan Viên dẫn tôi đến thăm anh. Anh tiếp chúng tôi, ân cần và chan hòa, như đối với những người em ít tuổi. Hàn Mặc Tử vóc người nhỏ gầy, giọng nói Quảng Bình pha lẫn giọng miền trong nhỏ nhẹ như thầm thì tâm sự. Hôm đầu tiên ấy, anh ít nhắc đến thơ Đường luật của anh tuy anh đã có nhiều bài bát cú tuyệt hay. Tuy viết theo luật Đường, thơ anh tài hoa, khoáng đạt khác hẳn lối thơ cử tử, những câu thơ đối nhau khá chặt chẽ mà vẫn tự nhiên trôi chảy với những từ dân dã:
..."Vội vàng cánh nhạn bay đi trớt
Hiu hắt hơi may thoảng lại rồi
Nằm gắng đã không thành mộng được,
Ngâm tràn cho đỡ chút buồn thôi
Ngàn trùng bóng liễu trông xanh ngắt
Chỉ có thông kia chịu với trời".
Từ sau buổi gặp ấy, Hàn Mặc Tử thường bảo tôi năng đến với anh. Cuối năm 1936, anh tặng tôi tập thơ Gái quê, tập thơ đầu của anh. Hàng chữ anh viết tặng đến nay tôi vẫn còn nhớ rõ từng nét, lối viết phóng khoáng, chữ ký rõ ràng, chân phương. Tiếc rằng tập thơ quý giá ấy bị thất lạc trong những ngày kháng chiến chống thực dân Pháp ở Liên khu 5.
Anh biết tôi là người Quảng Ngãi nên thường nhắc tới với tôi những kỷ niệm riêng của anh có liên quan tới địa phương này. Anh nói với tôi về Bích Khê, bảo rằng anh đang viết bài tựa cho tập thơ Tinh huyết của Bích Khê, anh bảo: "Mình thích Bích Khê và thơ cậu ấy không chịu khép mình vào khuôn cũ của ai cả". Hàn Mặc Tử khuyến khích tôi viết, mạnh dạn viết, vì anh thấy tôi có phần rụt rè trước mặt anh. Anh động viên: "Gắng viết, làm tựa cho Bích Khê xong, mình sẽ giúp Lãm tập hợp thơ lại và sẽ viết tựa cho Lãm". Tôi xúc động trước sự chăm sóc của anh, nhưng tiếc thay, việc ấy chưa kịp làm thì anh lâm bệnh nặng.
Sau này, tôi hiểu vì sao Hàn Mặc Tử lại chú ý đến Quảng Ngãi, quê tôi. Trong cuộc đời riêng của anh, một nỗi đau lớn gây cho anh một vết thương rỉ máu không bao giờ hàn gắn được. Nhưng mối tình đau khổ ấy lại là chất men cho tài năng sáng tạo của anh, y như vết thương trong lòng con trai, tạo nên hạt ngọc. Mộng Cầm, người anh yêu tha thiết, đã rời bỏ anh sau khi biết anh bị bệnh hiểm nghèo. Mộng Cầm tên thật là Nghệ, gọi nữ sĩ Ngọc Sương là dì, gọi Bích Khê là cậu quê ở Quảng Ngãi. Chị Mộng Cầm là bạn học với tôi ở lớp nhất trường tiểu học Quảng Ngãi, lớn hơn tôi năm tuổi. Dung nhan không lộng lẫy nhưng có đôi mắt đẹp và một tâm hồn nhiều xúc cảm. Đối với Mộng Cầm, tôi là bạn học, đối với gia đình Ngọc Sương, tôi là người thân, tôi rất buồn khi người bạn gái lớn tuổi ấy đã làm cho Hàn Mặc Tử tan nát cả lòng mình. Một hôm, đến chơi Hàn Mặc Tử, nhân nhắc đến quãng đời tuổi nhỏ của anh ở Sa Kỳ, một cửa biển ở Quảng Ngãi, tôi vô tình nói: "Từ Sa Kỳ, anh chỉ qua một cửa sông là đến quê chị Mộng Cầm, quê của Bích Khê rồi !". Chợt thấy anh lặng người chốc lát, tôi ân hận, sực nhớ mình đã gợi lại cho Hàn Mặc Tử nỗi đau xưa. Sau này, tôi có được thư của Chế Lan Viên viết cho tôi sau ngày giải phóng đất nước, cho biết ở Quy Nhơn người ta gọi con đường lên Gành Ráng, Quy Hoà, nơi có mộ Hàn Mặc Tử, là dốc Mộng Cầm. Chế Lan Viên tỏ sự bất bình về việc đó. Chế nói: "Đáng lẽ phải gọi là dốc Mai Đình mới phải".
Vậy Mai Đình là ai ? Người thiếu phụ ấy, vóc nhỏ mình gầy, không thuộc vào lớp người nhan sắc, nhưng tâm hồn chị đẹp xiết bao. Có sách viết rằng Mai Đình yêu thơ Hàn Mặc Tử, bèn trốn nhà đi từ quê Thanh Hóa tìm vào xin gặp. Mai Đình đúng là quê tỉnh Thanh, nhưng đã theo cha vào Phan Thiết. Từ đây, chị ra Quy Nhơn, nhờ người quen là Trần Kiên Mỹ, một bạn văn của Hàn Mặc Tử, đưa tới giới thiệu. Mai Đình yêu thơ Tử đắm say một cách kỳ lạ. Tôi chưa nghe chị nhắc tới Mộng Cầm bao giờ, nhưng chúng tôi đoán biết rằng chị đã rõ mối tình đau khổ của Hàn Mặc Tử, đã biết tài thơ lớn của anh ngay lúc còn ở Phan Thiết, vì cũng chính nơi đây, nơi Lầu Ông Hoàng này (một thắng cảnh của Phan Thiết), Hàn Mặc Tử gặp và yêu Mộng Cầm. Trong hoàn cảnh cô đơn buồn đau, Hàn Mặc Tử hết sức cảm kích trước mối tình của chị, nhưng lúc đầu anh nghĩ rằng chỉ là một mối tình vô vọng. Nhưng sau, trước tấm lòng tha thiết gần như hy sinh của Mai Đình, anh đã đáp lại mối tình ấy. Nên biết rằng lúc đó, bệnh phong hủi đã được khẳng định trên cơ thể, trên khuôn mặt của Hàn Mặc Tử. Những mảng ửng đỏ trên gò má, lông mi rụng hết trên đôi mắt không làm cho Mai Đình xa lánh. Lúc bấy giờ, chỉ có người thân trong gia đình và chúng tôi, những bạn thơ của anh đến với anh mà thôi. Tôi không tán thành việc thần thánh hóa tình yêu của Mai Đình, nhưng phải nhận rằng chị có một tấm lòng cao quý. Thời gian gần gũi chưa bao lâu thì Mai Đình phải từ giã người mình yêu, do quan hệ gia đình không thuận lợi. Từ đó về sau, tôi được biết Mai Đình đã trải qua những tháng năm vô cùng gian nan trong cuộc sống. Năm 1942, trong lần tôi nói chuyện về Hàn Mặc Tử tại câu lạc bộ Quảng Ích tại thành phố Sông Cầu, tình cờ tôi gặp Mai Đình, trông chị tiều tuỵ quá. Tôi biết rằng buổi nói chuyện của tôi đã đem lại cho chị một niềm an ủi nào đó. Sau hôm ấy, tôi không còn gặp lại Mai Đình nữa tuy tôi có ý định đi tìm chị. Trong lòng tôi, thương nhớ Hàn Mặc Tử càng khiến tôi thầm nghĩ không biết trên đường đời, Mai Đình có gặp ai là kẻ hiểu mình và trân trọng phẩm giá chân thực của mình không. Năm 1955, sau khi tập kết ra Bắc được một năm, tôi không ngờ được gặp lại Mai Đình tại nhà Chế Lan Viên ở phố Trần Hưng Đạo, trụ sở Hội văn nghệ Việt Nam. Thật là vui mừng được biết chị đã có gia đình hạnh phúc và riêng chị là "chiến sĩ thi đua toàn quốc" của ngành ngân hàng năm ấy. Trước khi mất một năm, Chế Lan Viên có gửi cho tôi một trang thơ của Mai Đình, trong đó có bài Ghen trăng chị nói đến tình yêu với Hàn Mặc Tử thiết tha đến chừng nào:
" Chị Hằng hẳn chị có bằng em chưa ?
Vì em là một nàng thơ,
Của chàng thi sĩ ước mơ mộng vàng,
Em có điệu nhạc du dương
Có đôi mắt ngọc để chàng say mê..."
Nếu anh quên mất lời thề,
Em đòi tất cả những gì của em !
Vì lòng em đã quá ghen,
Chị Hằng sao chị lại thèm duyên ta ?
Những đêm u ám trăng mờ,
Em buồn em sợ như là mất anh,
Cớ sao trăng lại ẩn hình,
Hay là trăng ở bên anh lúc này ?
Có chăng, anh hãy tỏ bày,
Để em bớt sợ những ngày còn xa..."
Sao Mai Đình không ghen với bao cô gái khác yêu thơ Hàn Mặc Tử mà lại chỉ ghen với trăng ? Quả là trong thơ Hàn Mặc Tử, vai trò của trăng đặc biệt quan trọng. Trong thơ anh, chúng ta luôn gặp trăng, càng về sau nỗi thất vọng càng tăng theo bệnh tình của anh thì trăng càng xuất hiện, càng như hiện diện thường trực trong thơ. Trăng trở nên một vật thể có linh hồn, có cuộc sống đối với nhà thơ. Trăng trở thành một ám ảnh từ trạng thái bình thường đến những biểu hiện ma quái. Trong Gái quê, bóng trăng sờ sẫm gối đã trở thành trăng vàng trăng ngọc về sau; đến lúc nhà thơ cười như điên, sặc sụa cả mùi trăng, là lúc hồn anh bắt đầu chìm sâu vào vô thức. Hình như giữa nỗi sầu điên dại và ánh sáng trăng có gì như là một tương quan bệnh lý. Gần đây, đọc hồi ký của Papilon, người tù vượt ngục, tôi thấy có đoạn viết về những người điên trong bệnh viện tâm thần càng lên cơn nặng hơn mỗi lúc có tuần trăng sáng. Không rõ ở trường hợp Hàn Mặc Tử có trạng thái ấy không ?
Đối với Hàn Mặc Tử, có nhiều sự đánh giá tuỳ tiện. Một số bài viết trong miền Nam thời Mỹ - Nguỵ đã thêu dệt và ly kỳ hóa cuộc đời của Hàn Mặc Tử, hoặc đề cao một cách không chính xác tính chất tôn giáo trong thơ anh. Một số bài viết ở miền Bắc trong thời kỳ chống Mỹ nghiên cứu về Hàn Mặc Tử một cách thô thiển và sai lầm. Thơ của Hàn Mặc Tử bản chất trong ngần như ngọc mà ta từng gặp trong Đây thôn Vĩ Dạ hoặc Mùa xuân chín, chân chất như trong Gái quê. Đến khi anh không còn hy vọng gì về sự phục hồi sức khỏe bằng phương pháp trần gian nữa, anh đã dành những lời thơ cuối đời của anh hướng về cõi vô cùng. Khác với thơ Thiên chúa của Claudel, Hàn Mặc Tử đã nâng hồn thơ mình đến cõi thượng thanh khí, đến một vùng trời tinh khiết nào đó trong ước mơ, đến một cõi sống mùa xuân vĩnh hằng anh mong chờ, không chỉ cho riêng anh mà cả - và thiên hạ: tứ thời xuân tứ thời xuân non nước. Tâm hồn Hàn Mặc Tử vừa dịu dàng đôn hậu, vừa say đắm nhiệt thành. Tôi không bao giờ quên hình ảnh của anh, giọng điệu của anh khi anh ngâm thơ, một lối ngâm riêng anh có.
Nhà thơ lớn Mỹ La tinh Nicôla Ghiden thường khai thác những lời nói, những giai điệu dân gian để đưa vào thơ, tôi được biết Hàn Mặc Tử cũng quan tâm đến phương pháp ấy. Ví dụ, bài Trăng vàng trăng ngọc mở đầu bằng câu: Trăng, trăng, trăng là Trăng, Trăng, Trăng ! Câu thơ ấy được lặp lại hai lần nữa trong bài. Nhạc điệu lạ lùng ấy từ đâu mà có ? Trong những năm 30, trên đường phố Quy Nhơn có một người điên nhưng rất hiền, lại hay có những cử chỉ thương người một cách kỳ lạ. Anh ta người cao lớn, ăn mặc rách rưới, ngực áo đeo đầy những nắp bia, những nhãn hiệu hàng hóa màu sắc loè loẹt, tay cầm chiếc gậy ngắn, vừa đi vừa hát. Thỉnh thoảng, anh ta đứng lại, miệng nói không ngừng: "pat xi ma ! pat xi măng ! từng tằng ! tằng ! tằng, tằng, tằng, tằng !", nói xong, anh lại hát. Hình ảnh rất quen thuộc với mọi người ở Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử thường chú ý đến con người hiền lành ấy. Chính câu thơ nói trên được viết trên cơ sở câu nói vô nghĩa của người điên kia.
Năm 1942, tôi đang ở Sông Cầu, được tin có vụ kiện do anh Quách Tấn, nguyên đơn khiếu nại anh Trần Thanh Mai, với lý do anh Trần Thanh Mại đã sử dụng những bài thơ của Hàn Mặc Tử vào cuốn nghiên cứu của mình: Hàn Mặc Tử, thân thế và sự nghiệp, nhưng không xin phép Quách Tấn là người được Hàn Mặc Tử di chúc giao quyền quản lý. Vụ kiện trở thành vụ án văn học đầu tiên ở nước ta, báo chí từ Nam chí Bắc đều đăng tin và mọi người, ai cũng chờ đợi kết quả, tin ấy đã làm phiền lòng những người bạn thân của Hàn Mặc Tử. Từ Sông Cầu, tôi viết thư vào Nha Trang cho Quách Tấn và viết ra Huế cho Trần Thanh Mại, đề nghị hai anh đừng kiện nhau nữa, vì tôi không muốn tên Hàn Mặc Tử được nhắc đến trong một phiên tòa của chế độ thời ấy. Mấy hôm sau, anh Quách Tấn viết trả lời tôi: "...Nguyễn Hạnh Đàn hãy yên tâm, tôi tin rằng dưới suối vàng, Tử sẽ vui lòng về việc này..." (Trước cách mạng, tôi đăng thơ trên báo chí với tên ký Nguyễn Hạnh Đàn). Anh Trần Thanh Mại cũng viết gửi tôi, đại ý nói rằng việc kiện này là do Quách Tấn đưa ra chứ không phải anh, đồng thời anh Mại gửi tặng tôi tập sách. Tòa án Nam triều đã mở phiên tòa tại Thừa phủ ở Huế xét xử. Báo chí khắp nước đổ xô săn tin. Nguyên và bị cáo là hai nhà văn, kiện nhau về tác phẩm của một nhà thơ quá cố, chánh án giữ quyền xét xử cũng là một nhà văn, đó là Nguyễn Tiến Lãng, nhà văn viết bằng tiếng Pháp khá nổi tiếng và là em vợ của thi sĩ Tản Đà. Kết quả, Quách Tấn thua kiện (chứ không phải xử hòa như tạp chí Văn của Sài Gòn cũ đã viết).
Từ ngày Hàn Mặc Tử mất đến nay, tròn nửa thế kỷ. Phải chờ đến năm mươi năm sau, thiên tài trác tuyệt ấy mới được công nhận trong cả nước. Chúng ta vui mừng với sự đổi mới trong quan điểm đánh giá văn học của chúng ta, đồng thời cũng tiếc cho bao thế hệ phải chậm tiếp cận với một tài thơ hiếm có. Hôm nay, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, những ngọn cờ của Nhóm Quy Nhơn ngày cũ đã vắng bóng, nhưng tác phẩm của các anh đã trở thành di sản quý giá của dân tộc. Năm kia, khi Chế Lan Viên báo cho tôi biết Tuyển tập thơ Hàn Mặc Tử sắp ra đời có bài tựa của Chế, tôi vui mừng, nhân dịp ấy, tôi gửi cho Chế Lan Viên bài thơ tôi viết về người bạn lớn của chúng tôi, đoạn kết như sau:
"...Phải một nửa đường thế kỷ
Ánh sáng thơ anh mới về được với đời sau,
Tử thân yêu, hồn thơ anh chỉ một,
Hành tinh chật rồi, không chứa nổi hai đâu !".
11-1990
(Viêt vào dịp kỷ niệm 50 năm ngày mất Hàn Mặc Tử )
Nguồn trích: Tuyển tập Nguyễn Viết Lãm. - H. , 1997 (1.593);
KHPL: BĐ.04(91)
Chủ Nhật, 29 tháng 3, 2009
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét