Chủ Nhật, 29 tháng 3, 2009

Hàn Mặc Tử và những nhà thơ trường Quốc Học Quy Nhơn

Hàn Mặc Tử và những nhà thơ trường Quốc Học Quy Nhơn

Phạm Hổ


Nhân dịp kỷ niệm 84 năm ngày sinh của nhà thơ (22 - 9 – 1912 – 1996) và kỷ niệm 70 năm ngày ra đời Trường Quốc học Quy Nhơn (15-9-1926 – 1996) tôi xin có đôi điều muốn trao đổi với bạn đọc về Hàn Mặc Tử và những nhà thơ cùng học trường Quốc học Quy Nhơn trước kia với ông.
Theo tôi, thơ Hàn Mặc Tử gồm có ba mảng lớn.
-Mảng viết cho các thể thơ cũ (chủ yếu là thơ Đường) về đất nước, truyền thống, tình bạn… như Cửa sổ đêm khuya, Buồn thu, Cây đàn nguyệt, Gái ở chùa v.v…
- Mảng viết theo thể thơ mới về cuộc sống hàng ngày, những cô gái quê, những người lao động,.. như: Em lấy chồng, Mùa xuân chín, Tình quê, Bẽn lẽn, Đây thôn Vĩ Dạ v.v…
- Mảng viết về những nỗi đau khổ đến tột cùng của tác giả từ khi lâm bệnh hiểm nghèo và tình yêu bị dang dở như: Những giọt lệ, Rụng rời, Trường Tương tư, Hồn là ai? Biển hồn ta, Phan Thiết! Phan Thiết v.v…
Đọc lại nhiều bài trong ba mảng thơ lớn trên đây tôi bỗng cảm nhận thêm được vài điều mới lạ.
Trước đây, đọc bài Em lấy chồng, tôi cũng thấy nó hay hay:

Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ
Em lấy chồng rồi hết ước mơ
Tôi sẽ đi tìm mõm đá trắng
Ngồi lên để thả cái hồn thơ

Nhưng lần này, khi tôi tự đặt ra câu hỏi: cái hồn thơ của anh hình dáng nó ra sao? Thả lên trời (như diều) hay thả xuống nước (như thuyền)? Tôi bỗng bắt gặp được tâm hồn của tác giả… Đây là một phản ứng về một tâm hồn. Thả vậy thôi chứ rồi anh lại kéo xuống, với lên…anh làm sao bỏ làm thơ được!
Cũng như trong câu thơ thiên tài này:

Áo em trắng quá nhìn không ra

Nếu chúng ta cùng hỏi vặn: nhìn không ra ai? Chúng ta sẽ có thể trả lời ngay là
Nhìn không ra em, nhưng ngắm kỹ hơn một chút nữa, chúng ta lại thấy nhìn ra cả anh nữa. Vì em đẹp quá làm anh sững sốt, bàng hoàng, và anh như không còn là anh trước đó. Câu thơ cũng giúp ta hiểu sâu hơn thế nào là cái đẹp. Cái đẹp thường không bao giờ lộ hết ra, mà luôn cất giữ trong mình một cái gì bí ẩn …
Hoặc như hai câu thơ kết thúc bài Mùa xuân chín:

Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?

Lần này đọc lại tôi mới chợt thấy: Chính nhờ sự để lửng lơ không rõ Chị ấy là ai, gánh thóc đi đâu ? làm gì? Mà dư âm của bài thơ cứ vang lên nhẹ nhàng rồi toả lan ra rất xa, rất xa…
Hình ảnh thơ thoát đọc lên nghe rất đẹp nhưng đọc lại thấy rất buồn, buồn một nỗi mênh mông như dòng sông trắng, như bầu trời nắng chang chang. Đọc đi đọc lại thấy muốn chảy nước mắt. Mà vẫn không hiểu hết vì sao…
Thơ hay thường dễ giúp người đọc hiểu được tác giả. Hàn Mặc Tử có một tâm hồn trong sáng, hồn nhiên đến lạ lùng. Không phải chỉ hồn nhiên lúc còn trẻ mà về cuối đời trong hoàn cảnh bệnh hoạn ngặt nghèo, tình duyên vỡ lỡ, anh vẫn thế Đây thôn Vĩ Dạ! được viết khoảng một năm trước ngày anh mất. Còn bài trăng vàng trăng ngọc là anh viết trong thời gian anh phải sống lần lũi trong căn lều rách nát ở giữa xóm Động, cái nóng vây quanh.
Hàn Mặc Tử hồn nhiên nhưng lại là người say mê sâu sắc. Anh có thể yêu một người chỉ thấy trong ảnh (Ngọc Sương) hoặc chưa bao giờ gặp mặt (Thương Thương) yêu đến mức viết không biết bao nhiêu là thơ với nàng…Song người mà Hàn Mặc Tử yêu nhất, say đắm nhất là Mộng Cầm. Mai Đình thì nhà thơ cũng quý cũng thương nhưng có lẽ chỉ đến vậy. Tôi có chú ý một chi tiết này: Sau khi tình yêu giữa hai người (Hàn Mặc Tử và Mộng Cầm ) bị tan vỡ, Hàn Mặc Tử cũng có lúc nhắc đến Mộng Cầm nhưng dưới một cái tên khác. Mặc dù tên gì thì nó cũng mang âm hưởng hai tiếng Mộng Cầm nghĩa là một chữ dấu nặng và một chữ dấu huyền. Phượng Trì, Lệ Kiều v,v,.. Như thế có thể xem như con người của Mộng Cầm đã nhập vào hồn anh còn gì nữa!
Say mê trong tình yêu, say mê trong sáng tác, ban đầu hai yếu tố này đã cùng nhau hổ trợ cho anh trong cuộc sống. Nhưng từ khi anh gặp phải tai biến về cả hai phía thì cả hai yếu tố đó tưởng như có thể đối lập nhau. Thế mà Hàn Mặc Tử đã có đủ nghị lực để giải quyết tốt. Anh lấy cái đau khổ để làm chính cái chỗ dựa cho thơ anh Anh vẫn làm thơ và nhờ vậy mà chỉ trong 6 năm đã để lại một sự nghiệp lớn.
Là một con người, đau khổ quá, Hàn Mặc Tử cũng khóc, nhưng khóc mà không cho ai biết.
Khóc một chắc (một mình) có ai vô mà biết! hoặc khóc cho chính mình nghe:

Hãy mường tượng một người thơ đang sống
Trong im lìm, lẻ ló, trong dãy đông
Mà đêm nghe tiếng khóc ở đáy lòng

Trong suốt bao nhiêu năm đau khổ ê chề, anh không bao giờ có ý nghĩ tự tử. Anh Yến Lan đã quả quyết nói như vậy. Và câu thơ này đã chứng minh câu nói của Yến Lan là đúng:
Trời hỡi, bao giờ tôi chết đi !

Bao giờ tôi chết đi thì rõ ràng là một cái chết bình thường như mọi người. Có người hỏi. Hàn Mặc Tử tìm đâu ra sức mạnh để vượt qua những nỗi đau?
Có thể câu thơ tiếp theo câu thơ trên, đã phần nào trả lời được chăng ?

Bao giờ tôi hết được yêu vì

Chắc là đúng như vậy! Chính sự yêu vì của tất cả những con người mà Hàn Mặc Tử đã gặp, đã sống đã có một sức an ủi, động viên lớn đối với anh.
Nhưng bên cạnh những con người, qua thơ Hàn Mặc Tử tôi còn thấy có một yếu tố nữa: Thiên nhiên; Vũ trụ, trăng sao, mây, gió… Với anh, con người và vũ trụ luôn sống bên nhau, vui buồn cùng chia sẻ! “Cho em buồn, Trời đất úa sương khuya” và không một nhà thơ nào trên thế giới viết nhiều về trăng, lạ lùng về trăng như anh.
Cuối cùng là Đạo của anh. Điều ấy không thể khác. Có điều là trong thơ Hàn Mặc Tử tôi thấy có đủ cả Đức Chúa trời và Phật, Thiên Đảng và Niết bản Đức Mẹ Maria và bà Tây Vương Mẫu các thiên thần và các nhân vật Liêu Trai v.v…
Có thể nói tâm hồn của Hàn Mặc Tử phóng khoáng đến mức lạ kỳ.
Trong ba mảng thơ lớn của Hàn Mặc Tử, hình như từ trước đến nay, hai mảng trên được nhiều người nhắc đến, thuộc hơn. Nhưng đọc kỹ lần này, tôi thấy mảng thơ thứ ba của nhà thơ cũng có một vị trí đặc biệt quan trọng.
Qua nhiều bài thơ trong mảng đó, Hàn Mặc Tử là một trong những bài thơ nói về nỗi đau của con người sâu sắc nhất.
Trong những bài thơ ấy, nỗi đau về thể xác và nỗi đau về tình cảm (tâm hồn) đều được Hàn Mặc Tử miêu tả đến:

Thịt da tôi, sượng sần và tê điếng
Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên

Khá rõ ràng là qua các bài thơ đau, tôi thấy Hàn Mặc Tử đau khổ về tình cảm tâm hồn hơn là về thể xác. Điều đó thật dễ hiểu. Tôi còn chú ý là tên các bài thơ, trong các bài thơ rất nhiều chữ hồn, xuất hiện. Tôi có cảm giác như trong những cơn đau xé lòng, anh như thấy cái hồn của anh đã tách ra cho anh thấy được những nỗi đau của mình rõ hơn. Có lẽ vì thế mà trong Hồn ai là ? anh đã kết thúc bằng hai câu

Dẫu hồn đi ròng rã đêm nay
Hồn mệt lả còn tôi thì chết giấc

Chết giấc (phần thể xác) thì không còn cảm thấy gì nữa. Nhưng mệt lả (phần tâm hồn) thì vẫn tiếp tục cảm giác, tiếp tục đau.
Và giúp cho con người thấy được, hiểu được thế nào là nỗi đau, nhắc con người đừng có bao giờ gây nên nỗi đau khổ cho người khác nhất là về mặt tâm hồn, đó cũng là một thu hoạch mà tôi rất trân trọng trong lần đôc này, về thơ Hàn Mặc Tử, cuộc đời Hàn Mặc Tử…
Cuối cùng theo sự đánh giá của Chế Lan Viên và nhiều người khác. Hàn Mặc Tử là ngôi sao sáng nhất trong các ngôi sao của trường thơ Mới Bình Định. Nhóm Tú Linh; Long, Ly, Quy, Phượng đã tôn anh làm rồng (Long), anh Yến Lan là lân (Ly), anh Quách Tấn là rùa (Quy) và Chế Lan Viên là Phượng (Phụng), nhóm thơ này đã có những sinh hoạt đặc biệt: cùng rủ nhau ra ngủ biển, đọc thơ và trao đổi về thơ, đến thăm lều Hàn Mặc Tử ở xóm Động và bàn nhau về tên một tập thơ sắp ra của nhóm v.v…Cạnh đó còn có các nhà thơ khác như: Phạm Văn Ký, Xuân Diệu, Xuân Sanh (trước cách mạng) và Nguyễn Viết Lãm, Vương Linh, Giang Nam, Phạm Hổ (trong cách mạng kháng chiến). Cũng hay là Phạm Văn Ký đề tựa “Gái Quê” cho Hàn mặc Tử. Trong kháng chiến chống Mỹ lại đề tua cho “Quê Hương” của Giang Nam.
Truyền thống về thơ của trường Quốc học là như vậy đó. Bao giờ mới có những Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Chế Lan Viên của những thế kỷ sau ? Đó là nhiệm vụ và vinh dự của trường Quốc học Quy Nhơn ngày nay.


Nguồn: Văn nghệ
1996. Ngày 21 tháng 9 (số 38)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét