Chủ Nhật, 29 tháng 3, 2009

Đối thoại trong đêm với Hàn Mặc Tử

Đối thoại trong đêm với Hàn Mặc Tử

Phạm Xuân Nguyên


- Thưa ông, cách đây mấy hôm là tròn đúng năm mươi năm ngày mất của ông tại trại phong Quy Hoà. Hôm ngũ thập chu niên ấy tôi có đọc lại tuyển tập thơ ông do “thi sĩ Chàm” bạn ông tuyển chọn và giới thiệu. Trong “lời giới thiệu” Chế Lan Viên viết: “Hàn Mặc Tử không phải là nhà thơ siêu thực. Tượng trưng càng không. Chủ yếu anh vẫn là nhà thơ lãng mạn (Nhưng siêu thực là gì: romantisme jusqú au bout: lãng mạn đến tận cùng). Anh cũng chưa bao giờ nói đến tôi điên tôi dại. Giờ bảo anh là nhà thơ duy nhất của Việt Nam dùng nhiều yếu tố siêu thực, có khi anh cự cho cũng nên. Siêu thực đây chỉ là yếu tố, chớ không phải là chủ nghĩa, là ngọn cờ đâu mà ngại nó! Tuy chữ ấy từ châu Âu của Breton mà đến nhưng từ xa xưa đã có yếu tố ấy ở Phương Đông”. Như vậy: Hàn Mặc Tử là nhà thơ có yếu tố siêu thực duy nhất ở Việt Nam, ý ông thế nào?

-Cái ông bạn họ Chế “quý dâng tràng chuỗi hột” cho tôi làm lễ trường thọ năm nào vẫn đầu óc thông minh thái quá đến thành rối rắm, phức tạp. Tuyển tập tôi ra năm 1987, thời đổi mới rồi, Chế muốn vĩnh cử hóa, bất diệt hoá vinh quang cho bạn mình sao cứ phải rào chắn vòng vo mãi quanh cái Surréalisme ấy thế. Siêu thực tôi có là có tự bản thân tôi, chứ hồi đó nào đâu tôi đã hiểu tường tận các học thuyết triết học của các triết gia Hútxét, Sôpenhaogiơ, Bécxông. Tôi chỉ biết trong tôi có gì, cảm gì thì nói ra cho biết, cho đạt đến độ say sưa, cuồng nhiệt nhất của khoái cảm tâm linh, vậy thôi.
- Thưa ông, đọc thơ ông ai cũng có cảm nhận đây là siêu thực, hay ít nhất là thơ có yếu tố siêu thực như họ Chế nói. Cảm giác đó ở tôi được củng cố bằng lý luận, xin lỗi, thói quen nghề nghiệp mà, qua tìm hiểu trường phái siêu thực của Pháp. Các nhà siêu thực muốn mô tả cái không thể nhìn thấy, muốn ghi lại trên giấy hoặc trên vải những phản ứng mù mờ của ý thức và tiềm thức, những liên tưởng nẩy ra bất ngờ và vô nguyên nhân trong đầu óc. Chủ nghĩa siêu thực chỉ cần ghi lại những cái nhìn lạ lùng đó, xâu chuỗi chúng vào nhau thế là đủ, dường như những lĩnh vực bí ẩn của cái huyền tưởng tồn tại tự nó phát triển hoàn toàn nội tại. Thế giới vũ trụ trăng sao của thơ ông chính đã được tạo ra trên cơ sở này. Và ông xác định rõ đó là “thơ mầu nhiệm”. Nghĩa là ông có ý thức tìm đến cái siêu thực.
- Có lẽ vừa là thế vừa không phải là thế. Trước hết tôi làm một thi sĩ. “Tôi làm thơ? Nghĩa là tôi nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng. Điểm này tôi giống các thi sĩ khác. “Tôi làm thơ? Nghĩa là tôi yếu đuối quá. Tôi bị cám dỗ, tôi phản lại tất cã những gì mà lòng tôi, máu tôi, hồn tôi đều hết sức giữ bí mật. Và có nghĩa là tôi đã mất trí, tôi phát điên”. Đây là cái khác người của tôi, có thể từ đó mà ra cái siêu thực cũng nên. Chế Lan Viên nói đúng, tôi vẫn là nhà thơ lãng mạn. Duy chỉ có do hoàn cảnh, do khí chất nhất là do tài năng, tôi cũng xin lỗi anh nói thế để cho thật công bằng và chính xác, nên thơ tôi có một vẻ riêng đặc biệt. “Người thơ phong vận như thơ ấy”, viết câu đó tôi muốn nói phải lấy thơ để xét đo người chứ không phải ngược lại.
- Thưa ông, câu thơ rất thích hợp để nói về tính chất siêu thực của thơ ông. Theo nghiên cứu, các nhà thơ siêu thực Pháp thừơng hay làm phép so sánh “ngược”, nhấn vào vế thứ hai chứ không phải vế thứ nhất, do đó phá vỡ trình tự liên tưởng thông thường. Thí dụ “Điếu xì gà đắng và ngon như cuộc sống” (Apoline) – Không phải nói điếu xì gà, mà nói về sự đắng cay - ngọt ngào của cuộc sống; hoặc: “những kẻ thị dân đáng thương hơn lòng căm thù của tôi, sự giận dữ của tôi” (P. Iunhíc) – đó là nói về cơn giận dữ tuyệt vọng, vô ích của nhà thơ. Trong thơ ông những so sánh ngược, liên tưởng ngược như thế không nhiều nhưng đáng chú ý.
- Tùy anh và các nhà nghiên cứu xét đoán, còn tôi viết là tôi mơ và tôi điên tôi nói như người dại…
- Thưa ông, đó chỉ là một mặt mà thôi. Có một mặt khác là ông rất có ý thức dùng trực giác thẩm mỹ để khám phá ra những bí mật của tự nhiên và ý thức, rất muốn tìm cách chuyển dịch những ranh giới của cái gọi là hiện thực. Một điều kỳ lạ và lý thú là có sự trùng hợp hoàn toàn giữa tư tưởng của André Breton và của ông, mặc dù ông mất trước 4 năm khi tuyên ngôn của chủ nghĩa siêu thực ra đời. Trong bản tuyên ngôn đó A. Breton nêu lên nhiệm vụ của nhà siêu thực là nghiên cứu “trạng thái đặc biệt của trí tuệ khi cuộc sống và cái chết, hiện thực và tưởng tượng, quá khứ và tương lai không bị xem như những cái tương phản” (Tài liệu đã dẫn, P. 1946, trang 76-77) Còn ông viết trong bài “Chiêm bao với sự thật” như sau: “có hay không, hư hay thực là những huyền hão chập chờn trước mắt. Nếu Đường Minh Hoàng phục sinh chắc cũng rỉ tai tôi mà nói cái chuyện lên chơi cung trăng với chuyện xuống âm ty gặp Dương Qúy Phi là có thực. Tôi cũng tin là có chứ sao! Và tôi sẽ ký thuyết minh một cách rất nhà Phật là sắc cũng như không, chết cũng như sống gần cũng như xa và hư cũng như thực…” nếu nói là những tư tưởng lớn Đông – Tây gặp nhau, ở đây là những tư tưởng tìm kiếm khai phá lối đi cho văn học nghệ thuật, thì vinh dự cũng xứng với ông trong làng thơ Việt Nam hiện đại.
- Xin lỗi, tôi không dám. Nhưng quả thực tôi coi làm thơ là sống thật. Trong mộng, trong mơ, trong chiêm bao, chứ không phải là thoát cõi trần lên cõi tiên. Tất cả là hóa làm một, vạn vật nhất thể hiểu theo nghĩa tôi hòa vào vũ trụ, thiên nhiên là là cái “tôi” thứ hai của tôi, là sự thể hiện bản ngã của tôi. Tôi lưu ý ông đến bài “Ave Maria”.
- Thưa ông, theo ý tôi bài đó dưới cái vỏ lời cầu nguyện của con chiên Nguyễn Trọng Trí thực ra là một bản tuyên ngôn thơ của thi sĩ Hàn Mặc Tử. Một tuyên ngôn khá là siêu thực. Hai hàng lệ rưng rưng của ông khóc cảm tạ Đức Mẹ phò nguy cứu bệnh biến thành:
Giòng thao thao bất tuyệt của nguồn thơ
Bút tôi reo như châu ngọc đền vua
Trí tôi hớp bao nhiêu là khí vị
Và trong miệng ngậm câu ca huyền bí
Và trong tay nắm một nạm hào quang.

Một bức chân dung tự họa thật đẹp của ông. Ca ngợi đức mẹ thực ra là ông khẳng định tài năng của mình và chứng tỏ trong cái nước Trời thi ca thì chính ông là chúa tể. Tiếp đến ông cầu xin phước lành Đức Mẹ:

Cho tình tôi nguyên vẹn tợ trăng rằm
Thơ trong trắng như một khối băng tâm
Luôn luôn reo trong hồn trong mạch máu
Cho vỡ lở cả muôn nghìn tinh đẩu
Cho đê mê âm nhạc và thanh lương
Chim hay tên ngọc, đá biết tuổi vàng.

Sức mạnh của thơ đến như vậy, hỏi còn ước gì hơn? Và ông đã làm được vậy. Hàn Mặc Tử là nhà thơ đã dám “Vãi tung thơ lên tận sông Hằng. Thơ phép tắc bổng kêu rên thống thiết”. Siêu thực là ở chổ làm cho thơ phải kêu lên như thế chứ ở đâu nữa. Mà vì thơ kêu thống thiết, tiếng kêu bi thảm và lạ lùng của một con người bất hạnh, nên dù không nhiều lắm người nghe hiểu, dù chịu bị bịt bung che chắn nhiều năm thơ đó vẫn sống như bông phượng nở trong màu huyết nhỏ xuống lòng những giọt châu.
- Cám ơn anh. Thật tình cho đến bây giờ, 50 năm sau ngày nằm xuống, đôi lúc tôi vẫn cảm thấy buồn tủi cho thân phận thi ca của mình. Những dòng thơ huyết thổ ra qua những cơn ho, cơn vò xé tâm can đó trộn lẫn với trăng, hoa, đất cát thành một khối chất của Tử tôi sao lại bị dập vùi, trầm luân đến thế. Phải chăng khối chất ấy là một cái gì quái dị, khó hiểu, khiến người đời kinh ngạc.
- Thưa ông, quả đúng vậy, nhưng xin nói ngay để ông yên lòng và vui lòng rằng đó lại là cái riêng, cái độc đáo duy nhất của ông. Thế giới thơ ông là thế giói của những cái quái lạ, cái kinh ngạc, ông tạo những hình ảnh gây ngạc nhiên sửng sốt, trong thi pháp siêu thực có thuật ngữ Image stupéfiante do Apôline đưa ra. Ông chắc biết dịch ra tiếng việt nghĩa là “hình ảnh” (hoặc hình tượng) có tính sững sờ, kinh ngạc. Đó là sự đặt cạnh nhau những yếu tố thuộc các bình diện khác nhau của hiện thực, sự đối chiếu cái không thể đối chiếu được - chủ nghĩa siêu thực đã hình thành dưới phương châm này và đây vẫn là một thuộc tính chính của nó. Trong thơ ông điều này thì đầy tràn, đó là đặc điểm thi pháp chủ đạo xuyên suốt của thơ Hàn Mặc Tử. Ngay cái việc kéo trăng và máu vào cùng một bình diện đã có lẽ là một hành động chưa từng có trong lịch sử thơ ca nói chung rồi. Đây là 4 câu tiêu biểu:

Gió rít tầng cao trăng ngã ngửa
Vỡ tang thành vũng đọng vàng khô
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra

Theo nhà nghiên cứu Xô Viết T. Balasôva trong chuyên khảo “Thơ Pháp thế kỷ XX” (Nhà xuất bản “Khoa học”, M. 1982) thì hiệu quả của hình ảnh kinh ngạc và phản ứng đáp trả “bất ngờ” (thuật ngữ Surprise cũng của Apôline) không phải các nhà siêu thực là những người đầu tiên tìm kiếm. Trước họ Rembô, Lôtrêamông, Apôline đã từng đòi hỏi, yêu cầu. Nhưng chỉ các nhà siêu thực mới đẩy hiệu ứng kinh ngạc đến mức gay gắt, mạnh mẽ. Ông có thể tự hào ở Việt Nam ông là ngừơi đi theo hướng này. Cố nhiên đạt được như vậy còn là do tài sử dụng ngôn ngữ của ông…
- Anh muốn nói đến sự kết hợp từ ngữ trong thơ.
- Thưa ông, đúng - sự kết hợp từ ngữ. “Có thể kết hợp mọi từ với nhau không loại trừ từ nào. Giá trị thơ ca của sự kết hợp như thế càng cao nếu nó càng võ đoán và thoạt nhìn ngỡ như không thể được” (A. Breton). Thí dụ trong thơ Pháp: “Con chuột chết nằm trong não bộ” (G. Rípmông – Đétxen), “ăn xong cái gì văng, con gấu khạc ra bộ ngực phụ nữ” (B. Pêrê), “Đồ ăn đóng đinh câu rút giống như mùa thu” (G.Acpơ). Còn đây thơ ông: “thơ như tình ái của ni cô” (huyền ảo), “nhiều hành tinh tan đi vì đã lỏng” (đôi ta), “Ngả nghiêng đồi cao bộc trăng ngủ” (Ngủ với trăng) v..v.. Thơ mới đã làm một cuộc cách tân táo bạo trong ngôn ngữ Việt Nam, ở đó có phần đóng góp không nhỏ của ông, đặc biệt trong phạm vi khả năng kết hợp từ. Và về mặt này tôi muốn nói thêm là ngay cả trong giới hạn một từ ông cũng có thể buột nối các bình diện khác nhau lại với nhau, dĩ nhiên là có dòng ngầm văn bản bên trong. Câu “đừng ngã tay mà hứng máu trời xa” (đừng cho lòng bay xa) đã nhập máu ngừơi với máu trời (những vì sao) đọc lên cảm biết thắm thía đau thương. Ví sao là máu trời quả là kinh dị và độc đáo.
Pôn Êluya viết: “Những tư tưởng và tình cảm trần trụi gây ấn tượng mạnh như ngừơi phụ nữ khỏa thân. Nghĩa là cần phải lột trần chúng ra”. Thơ Hàn Mặc Tử có tính chất siêu thực cả ở điểm này nữa ông không ngại nói trần trụi nhưng vì đó là chân thực nên có tính nghệ thuật và có sức thuyết phục, truyền cảm “trời hỡi làm sao cho khỏi đói, gió trăng có sẵn làm sao ăn” - tiếng kêu nhói lòng đau đớn. Rồi bao lần ông cắn thơ, cắn trăng, nhả ra trăng, nhả ra một nàng, mửa ra huyết…, những câu thơ không hoa mỹ để lại cảm giác nhức nhối tê tái lâu dài cho người đọc.
- Tôi với anh đã thức cùng nhau gần trọn một đêm trò chuyện, trao đổi về thơ tôi. Cái chính là tôi nghe anh nói, tôi nhập hồn về đây là để làm một chứng nhân im lặng trước sự phán xét của hậu thế. Còn những cái gì tôi sinh thành từ tâm trí tôi thì đã xuất hiện và vĩnh viễn còn lại ở thế gian như chúng vốn vậy. Ông bạn thi sĩ Chàm của tôi khi còn sống đã lo cho tôi: “thế thì đọc Tử thế nào? ở miền nam trứơc kia ngừơi ta đọc Tử hoặc thấp xuống với Freud với tình dục bản năng hoặc cao lên thượng thanh khí với chúa trời, hoặc tít tắp xa ra trong thời gian, trong con đường về cái chết với Haiđêgơ và nhiều nhà triết học khác”. Anh lại muốn kéo tôi về gần Bécxômh. Thôi tùy, chân lý chỉcó một những lẽ phải thì có nhiếu, cứ tranh cãi đi để từ nhiều trở về một. Bây giờ xin phép anh tôi đi đây, ngày sắp rạng rồi. Tôi đi “từ sự thực đi tới bào ảnh, từ bào ảnh đi tới huyền diệu và từ huyền diệu đi tới chiêm bao. Mông lung đã trùm lên sự vật và cõi thực, bị ánh sáng của chiêm bao vây riết…” (Chiêm bao với sự thực).
- Adieu, Hàn Mặc Tử! Câu cuối cùng ông vừa nói tôi xem như một quan niệm văn học, một cách thức làm thơ riêng của ông. Và có thể coi bài thơ sau đây, nhan đề rụng rồi – như lời di chúc một đời thơ ngắn ngủi mà trường tồn cho các duyên kiếp thi nhân đang tới.
Thơ chưa ra khỏi bút
Giọt mực đã rụng rồi
Lòng tôi chưa kịp nói
Giấy đã toát mồ hôi.

4h kém 15 phút sáng 17 –11- 1990

Nguồn trích: Nha Trang.- 1991.- Tháng 9-10 (Số 8) (1354);
KHPL: BĐ.04(91)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét