Chủ Nhật, 29 tháng 3, 2009

André Breton và Hàn Mặc Tử

André Breton và Hàn Mặc Tử



Hoàng Nhân

Năm nay giới văn học Pháp đang chuẩn bị nhiều hoạt động kỷ niệm 100 năm ngày sinh và 30 năm ngày mất của nhà thơ nổi tiếng André Breton (1896 – 1966), nhà thơ tiền phong và là người đứng đầu trường phái siêu thực về lý luận và thực hành sáng tác như thế nào? Thử tìm hiểu đôi điều liên hệ giữa André Breton và nhà thơ Hàn Mặc Tử của chúng ta.

Chủ nghĩa siêu thực là một trào lưu năng động nhất về văn nghệ của thời kỳ sau Thế chiến lần thứ I. Hình thành ở Pháp khoảng từ năm 1920, chủ nghĩa siêu thực tự khẳng định với bản Tuyên ngôn siêu thực lần thứ nhất (1924) và tạp chí Cách mạng siêu thực. Từ năm 1926 đến năm 1928, trường phái này hoạt động sôi nổi với nhiều tác phẩm của các tác giả như: Nadja của Breton, người nông dân Paris của Aragon, Tự do hay tình yêu của Desnos, Trí tuệ chống lại lý trí của Crével, Đô thị đau thương của Eluard,. Đây là thời kỳ chủ nghĩa siêu thực trong thơ và hội họa đầy sinh khí và có sức hấp dẫn mạnh mẽ một bộ phận khá đông công chúng ở Tây Âu. Từ năm 1929, trường phái siêu thực bắt đầu chia rẽ và phân tán với Tuyên ngôn thứ hai (1930) của Breton. Từ năm 1927, Aragon và Eluard đã ra nhập đảng Cộng sản Pháp và đến năm 1932 thì cắt đứt với phái siêu thực. Năm 1938 là năm mở đầu các cuộc triễn lãm hội họa siêu thực ở Paris trong nhiều năm.

Trường phái siêu thực ra đời có nguyên nhân sâu xa về xã hội, văn hoá từ giữa hai cuộc thế chiến (1919 –1939). “Một thế hệ mất mát” (une g1enératon perdue) sau thế chiến lần I, lo âu trước sự đe dọa của một cuộc chiến tranh mới, đã tỏ ra “bất phục tùng” trước thực tại. Họ đi tìm một cách nhìn mới về một thế giới trước nghịch lý của nền văn minh liên tục xây dựng và liên tục bị tàn phá. Họ day dứt trước bao điều trái ngược về các mối quan hệ giữa thực tại và tưởng tượng, tinh thần - vật chất, Lý trí – Phi lý tính… Họ muốn cởi mở tiếp nhận và dung hòa nhiều yếu tố tư duy khác nhau: ý nghĩ “đổi đời” của Rinbaud, tư duy “cải tạo thế giới” của Mác, cái “đà sống” của con người qua phân tâm học của Freud.

Andeton là nhà lý luận, một nhân cách độc lập và say mê đã kiên trì thể hiện và bảo vệ những giá trị của trào lưu này. Có mặt ở trung tâm các cuộc luận chiến, ông thường sử dụng hai vũ khí: khen ngợi và chê trách mạnh mẽ. Ông cho rằng tiếng nói nguyên sơ của con người đã mất đi vì bị phó mặc cho chủ nghĩa duy lý và ông khẳng định rằng con người luôn giữ trong suy tư của mình một thực tại còn chưa khám phá ra. Ông quan niệm “một lực chủ đạo là dục vọng không gò bó” sẽ làm nẩy nở: thơ, tình yêu, tư do - vốn là hạnh phúc trọn vẹn của nhân loại. Ông muốn con người cần loại bỏ những ràng buộc của cuộc sống hàng ngày, những thói quen làm cho con người trở nên “ù lì”. Do đó ông nổi loạn thường trực chống lại cuộc đời như đã định sẵn và trong bản thân ông diễn ra nghịch lý: ý thức cách mạng nẩy nở khi đấu tranh cho tự do chống lại mọi chế độ ràng buộc, nhưng ông lại không tán đồng mệnh lệnh của các đảng phái chính trị làm cho hoạt động trí tuệ thuộc vào sự thống nhất của tổ chức. Và quan niệm về chủ nghĩa xã hội của ông có tính chất một chủ nghĩa tự do không tưởng. Breton ý thức rằng cuộc sống phải có những cắt đứt và điều chỉnh, và chủ nghĩa siêu thực mang lại sự thuần khiết trọn vẹn của cá nhân.

Trong Tuyên ngôn của ông đã nêu lên “lối viết tự động” (écriture automtique) là lối viết thể hiện mọi ý tưởng, cảm xúc ngẫu nhiên từ cõi tiềm thức, những giấc mơ, ảo giác… vượt ra sự kiểm soát của lý tính: “Từ niềm tin về những khám phá của Freud, một trào lưu sẽ ra đời. Nhờ trào lưu đó, nhà thám hiểm nhân văn có thể đẩy ra những cuộc tìm kiếm của mình mà không chỉ cần đến thực tại sơ sài… Chủ nghĩa siêu thực là chủ nghĩa tự động tâm lý thuần túy, nhờ nó mà người ta đặt vấn đề biểu hiện hoặc bằng lời nói, hoặc bằng bài viết, hoặc bằng bất cứ cách thức nào, hoạt động thực tế của tư tưởng thoát khỏi mọi sự kiểm soát của lý tính…”

Nadja (1928) là tác phẩm văn xuôi có tính chất thơ tiêu biểu của Breton. Tác giả kể về sự kỳ diệu của hai Paris của những chốn và con người có thật, và một Paris khác có tính chất biểu tượng với những cuộc gặp gỡ. Vấn đề không phải là ở người gặp mà ở sự gặp gỡ khi nhân vật Nadja hoà lẫn với những người gặp trên đường. Qua những lần gặp gỡ thì sự trợ giúp của người phụ nữ là yêu việt, vì người phụ nữ gắn với thiên nhiên hơn người đàn ông, và giúp ta hiểu được bí mật của thời gian. Những lần gặp gỡ phát hiện ra vẽ đẹp thật ngẫu nhiên và “sự lên men của các dục vọng bí ẩn” nằm sâu trong cõi tiềm thức và vô thức. Từ năm 1942 đến năm 1947, nhiều tác phẩm của ông có tính chất sử thi và triết lý. Ví dụ bài thơ Chuyến thư cuối cùng (Dernìere levée) là cuộc vi hành của một lá thư “đóng dấu đường hoàng đạo”, bóc ra bởi những mái chèo, mở ra bao điều bí mật của tâm hồn, sống và chết, quá khứ và tương lai, cái cao và cái thấp… không còn được nhìn trong thế mâu thuẫn.

Văn học hiện đại Việt Nam không có chủ nghĩa siêu thực mà chỉ có những yếu tố siêu thực nhất định, khởi đầu với tác phẩm của một số nhà thơ Mới như Chế Lan Viên (Điêu tàn), Nguyễn Xuân Sanh (Xuân Thu nhã tập) và nhất là Hàn Mặc Tử (Thơ điên: đau thương, thượng thanh khí…). Trong Lời giới thiệu Thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên viết: “Anh bị xô vào giữa trận bão, cơn giông, đám cháy, giữa chết chóc, cô đơn, máu lệ nên có cách nào hơn? (…). Cuối cùng anh dùng đến cả bút pháp siêu thực châu Âu. Anh tả sao:

Đứng ngửa tay mà hứng máu trời sa

Và chính anh đang cảm thấy máu sa trong hồn anh thực. Anh viết:

Ta đi tìm nụ tầm xuân
Gặp vua nhà Nguyễn bay trên mây
Rượu nắng hồng vào thì say
Áo ta rách rưới trời không vá
Suốt bốn mùa trăng mặc vải trăng

Điên đầu phải không? Nhưng anh say say chứ? Ngấm rượu siêu thực của anh rồi!”

Hàn Mặc Tử đã viết những vần thơ đau thương trong hoàn cảnh anh bị bệnh phong vào thời ấy phải sống cách biệt với mọi người. Có thể nói bao nhiêu ham muốn và khát vọng cháy bỏng từ thân xác, trái tim, trí tuệ, tài hoa của một chàng trai bị dập vùi, dồn nén vào trong tầm thức, vô thức để rồi thoát thành những vần thơ theo “lối viết tự động” như của Breton, vượt ra ngoài sự kiểm soát của lý tính.

Từ đó ta mới có thể hiểu chất thơ thế tục của ông:

Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn
…Ô kìa bóng nguyệt trần truồng tắm
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe
… Dám ôm hồn Cúc trong sương
Ôi Hoàng hoa, hồn phách nơi đây

Hàn Mặc Tử là một tín đồ Thiên Chúa giáo, thế mà tín điều ép phần xác cho siêu thoát phần hồn của Kinh thánh lại không kiểm soát được cảm hứng thế tục của nhà thơ thoát ra từ bản năng vô thức bị dồn nén. Có thể Hàn Mặc Tử chưa hề biết đến trường phái siêu thực trong thơ của họ lại gặp nhau.

Điếu khác biệt là Breton đứng đầu cả một trào lưu siêu thực, tiêu biểu cho sự phản ứng của cả một Thế chiến I nhằm chống lại thực tại tư sản, còn Hàn Mặc Tử của chúng ta là sự giằng xé đau thương của một cá nhân đơn độc, của một người dân Việt Nam trong xã hội thuộc địa, mắc phải chứng bệnh hiểm nghèo. Do đó chất thơ siêu thực của Hàn Mặc Tử lại toả ra “thanh khí” riêng của một hồn thơ dân tộc say mê mãnh liệt cuộc sống. Do đó ông đã sáng tạo ra một cõi sống riêng, một hồn riêng mà không phải là hư vô như có người ngộ nhận, không phải là hồn như của bao con chiên khác hướng đến thiên đàng.

Ta khạc hồn ra ngoài cửa miệng
Há mình cho hồn văng lên muôn trượng
… Hồn là ai, là ai tôi không hay
Dẫn hồn đi ròng rã một đêm nay

Và nhà thơ yêu sức sống của ánh trăng bàng bạc, của gió mây trời quê hương:

Lụa là ướt đẫm cả trăng thơm
Người trăng ăn vận toàn trăng cả
Gò má riêng thôi lại đỏ hườm
… Nghe hơi gió ôm ngang lấy gió
Tưởng chừng như trong gió có hương
Của người mình nhớ mình thương
Nào hay gió tạt chẳng vương vấn gì
… Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng qúa nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà

Trong quá trình sáng tác, Chế Lan Viên, Xuân Diệu đã cảm nhận sự cần thiết “một thoáng siêu thực” trong thơ làm cho chất trữ tình, chất hiện thực càng dễ say lòng người. Nếu chất thơ siêu thực của Preton và trường phái siêu thực Pháp vẫn đậm màu duy lý khi kết hợp thực và mộng, thực và siêu thì chất thơ siêu thực của Hàn Mặc Tử lại thấm màu trực giác tổng hợp của phương Đông về thời gian - không gian, con người – vũ trụ, thể chất – tâm hồn… Vì lẽ đó mà chất thơ siêu thực của ông đã vượt ra ngoài mọi khuôn khổ của tín điều, giáo lý.

Nhà phê bình Albérès viết: “Trong đời người có những lúc một vật nhàn chán nhất cũng làm cho chúng ta tràn đầy vui sướng, chúng ta sống những phút ấy vì gặp tình cờ, có khi vì mỏi mệt, chúng ta nhìn sự vật khác hẳn lúc bình thường. Chủ nghĩa siêu thực tạo những cơ hội ấy… cho tấm màn thói quen nhàm chán rách tung và làm hiện ra một thế giới ở bên ngoài biên giới của hệ của thông lệ tạo nên bởi giáo dục” (Văn chương đương đại thế giới)

Nhà thơ Chế Lan Viên nhận xét: “Siêu thực của châu âu là chủ nghĩa siêu thực, ta không chấp nhận chủ nghĩa. Nhưng ta mừng trước thơ Hàn Mặc Tử vì thơ ông có mang những yếu tố siêu thực, với một tỷ lệ chấp nhận được. Hơn nữa, siêu thực châu Âu là siêu thực vì bộ óc. Hàn Mặc Tử thì Nàng đánh tôi quá đau. (Tựa thơ Hàn Mặc Tử)

Giới văn học Pháp kỷ niệm lớn André Breton với những lý do riêng của xã hội nước pháp vẫn đang trãi qua muôn vàn sóng gió ở cuối thế kỷ này. Tìm hiểu tính chất siêu thực trong thơ Hàn Mặc Tử là để thấy sự gặp gỡ Đông – Tây về văn hoá, nhưng ở Hàn Mặc Tử vẫn đậm đà bản sắc của một hồn thơ Việt Nam

Nguồn trích: Tạp chí Văn hóa.- 1996.- Số 7 (1.348);
KHPL: BĐ.04(91)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét