Những năm tháng đau đớn của Hàn Mặc Tử
Phan Cao Toại
Mãi đến năm 1941, y học mới phát hiện DDS, thuốc đặc hiệu điều trị bệnh phong. Tuy nhiên trong bệnh phong, dù không được điều trị hay điều trị muộn, người bệnh vẫn không chết vì bệnh này mà chỉ bị tàn phế tay chân hoặc ở mặt. Tiếc rằng Hàn Mặc Tử đã phạm sai lầm khi sử dụng các loại thuốc có nhiều độc chất. Ngày nay, không còn là tứ chứng nan y và hy vọng sẽ bị tiêu diệt vào năm 2000. Người viết bài này là một thầy thuốc đã nhiều năm làm việc với bệnh nhân phong, mang chút hiểu biết ít ỏi của mình trình bày cùng bạn đọc và cũng xin xem đây là nén nhang tưởng nhớ thi sĩ tài ba Hàn Mặc Tử.
Cho đến nay, sau năm mươi tám năm ngày mất của thi sĩ tài hoa nhưng bạc mệnh Hàn Mặc Tử, nhiều người vẫn chưa hiểu tường tận về căn bệnh cũng như cái chết thương tâm của nhà thơ. Các tài liệu để lại nói về quãng đời của ông thật ít ỏi và cũng không nhất quán. Song, có một điều có thể khẳng định được, thời gian phải sống trong bệnh tật ảnh hưởng rất lớn đến quá trình sáng tác của ông. Vậy Hàn Mặc Tử đã mắc bệnh gì, quá trình chữa trị ra sao và cuối cùng chết vì nguyên nhân gì. Căn cứ vào những tài liệu có được ở Bệnh viện phong Quy Hòa (Quy Nhơn), nơi nhà thơ trút hơi thở cuối cùng, qua tiếp xúc với ông Nguyễn Bá Trí em ruột nhà thơ, ông Nguyễn Văn Xê bạn bệnh và nữ sĩ Mai Đình, bạn thơ một thời của Hàn có thể đi đến kết luận: Hàn Mặc Tử mắc bệnh phong nhưng lại chết vì suy kiệt.
Dựa trên cơ sở khoa học về bệnh phong, thời gian ủ bệnh của bệnh này vào khoảng sáu năm (có thể dài hơn). Hàn Mặc Tử bị nhiễm bệnh này vào khoảng 1929-1930. Trong gia đình Hàn từ trước cho đến thời gian Hàn bị bệnh không có ai mắc bệnh này, như vậy là Hàn đã bị lây từ một nguồn lây nào đó. Bệnh phong không di truyền, khó lây nhưng vẫn là bệnh truyền nhiễm . Vì thời gian ủ bệnh khá lâu nên khi xuất hiện những dấu hiệu đầu tiên của bệnh, phải hiểu rằng người bệnh đã bị nhiễm bệnh khá lâu trước đó. Trong thời gian ủ bệnh, dĩ nhiên có sự biến đổi đáng kể về tâm sinh lý. Sự biến đổi này ở Hàn Mặc Tử được ông Nguyễn Bá Tín mô tả: “Anh thay đổi cả tâm tính lẫn hình thể, sống nội tâm xa vắng…”, và vì có những chuyện buồn trong gia đình (anh ruột Hàn bị chết vì tai nạn, gia đình đang trong tình trạng túng quẫn), Hàn rơi vào tình trạng buồn bã, u sầu, luôn luôn bị ám ảnh bởi những nỗi đau nhân thế. “ Càng bị ám ảnh nặng nề hơn khi nghe tin thiếu nữ từng hòa đàm với tôi vì chuyện buồn của gia đình mà quyên sinh…” (Nguyễn Bá Tín, Hàn Mặc Tử, anh tôi) Ông sống trong những ảo ảnh kỳ lạ, tràn đầy yêu thương và đau xót. Cảm giác bay bổng đó có thể hiểu như là một thể nhẹ của bệnh tâm thần và nhờ sống trong hoàn cảnh đó, Hàn Mặc Tử đã xuất thần cống hiến cho đời những áng thơ hay. Tình trạng tâm lý này còn diễn biến suốt quá trình bệnh lý của Hàn Mặc Tử.
Có người nói, sở dĩ Hàn mắc bệnh phong vì có lần ông đi chơi với Mộng Cầm ở Phan Thiết bị mắc mưa, phải trú vào một chòi tranh trong nghĩa địa gần một ngôi mả mới. Quan niệm này không đúng bởi lẽsự thối rửa của xác chết không phải là nguyên nhân gây bệnh phong.
Sau khi có những biểu hiện của bệnh phong, khoảng đầu năm 1935, gia đình Hàn rất lo lắng, liền mời một ông thầy đông y đến bốc thuốc. Ông này chẩn đoán Hàn bị bệnh phong và nói rằng trong máu có chất độc. Lúc bấy giờ, bệnh phong bị xếp vào tứ chứng nan y: phong, lao, cổ, lại. Bệnh phong ở đây gồm một khái niệm rất rộng và mơ hồ từ những biểu hiện nhẹ trên da như nổi mề đay, ngứa ngáy cho đến bệnh phong (Lèpre) do vi khuẩn Hanxen gây nên. Cho nên, ông thầy đó chỉ cho một liều mười thang bổ huyết khu phong, một liều thuốc không hề có tác dụng diệt khuẩn mà có tác dụng giải mẫn cảm nên bệnh tình của Hàn không thuyên giảm.
Mặc dù biểu hiện cuả bệnh phong khá rõ như hai tai, thùy châu bắt đầu song đỏ, nhưng Hàn vẫn cảm thấy bình thường. Thêm một điều nữa khiến nhà thơ không lo lắng gì về bệnh tật của mình, đó là việc ông Bửu Đông lấy máu ở tai xét nghiệm nhưng không có vi khuẩn Hanxen. Điều này cũng khá phù hợp với diễn biến của bệnh phong trong giai đoạn đầu. Có thể vào thời điểm đó, Hàn bị bệnh phong thể BT, thể có ít vi khuẩn. Muốn xác định thể này, ngoài xét nghiệm tìm vi khuẩn còn phải xét nghiệm tế bào học.
Giữa lúc bệnh tình bộc phát, Hàn cho xuất bản tập Gái quê và nhận lời làm chủ biên cho tờ Phụ nữ Tân văn ở Sài Gòn. Vì các triệu chứng quá rõ, Hàn phải lo điều trị cho khỏi trước khi vào nhận việc. Người thứ hai xem mạch kê đơn cho Hàn là một ông thầy thuốc người Hoa ở Gò bồi (Tuy Phước). Ông này cho Hàn uống thuốc tể, dặn kỹ càng về liều lượng và cách sử dụng.
Uống được chừng hai tuần, các triệu chứng bay đi gần hết, chỉ còn hai thùy châu phơn phớt hồng.Vì nôn nóng muốn vào Sài Gòn sớm, Hàn đã rút ngắn thời gian điều trị, uống gấp đôi liều. Hàn đâu biết, đó là thứ thuốc làm từ các loại nọc rắn nên có lần uống xong, Hàn lão đão, cong người, ngã vật xuống đất. Quan niệm lấy độc trị độc của các ông lang thời bấy giờ đã làm hư hỏng các phủ tạng của người dùng thuốc, đặc biệt là gan và thận, gây nên hiện tượng ngộ độc thuốc trường diễn, hậu quả cơ thể không có khả năng hấp thu, dẫn đến suy kiệt. Có thể nói, việc Hàn dùng quá liều thuốc có nọc độc của ông lang ở Gò bồi đã dẫn đến cái chết oan uổng của ông không lâu sau đó.
Trải qua hàng loạt những điều trị sai lầm của ông lang, khi Hàn được đưa vào Bệnh viện phong Quy Hòa, ông đã ở trong tình trạng suy kiệt. Hồ sơ của ông mang ký hiệu 1134, ngày vào viện 20/9/1940 với chẩn đoán: “Bệnh phong thể nhiều vi khuẩn”.
Ông Nguyễn Văn Xê kể lại: Hàn không thể đi lại một mình, mỗi lúc ra ăn cơm phải có người dìu đi và ở thời kỳ này, Hàn chỉ sáng tác duy nhất bài thơ Sự trong sạch của tâm hồn (La pureté de l’âme) dành tặng các xơ. Ông mất lặng lẽ vì suy kiệt lúc 11h ngày 11 tháng 11 năm 1940, hưởng dương 28 tuổi. Hồ sơ ghi là bệnh kiết lỵ, nhưng theo sự suy đoán của chúng tôi, đó là tình trạng suy kiệt quá nặng do cơ thể không còn khả năng hấp thu.
Điểm qua quá trình diễn biến bệnh tật của nhà thơ để tìm ra nguyên nhân làm ảnh hưởng đến quá trình sáng tác của ông, nhiều người nói thơ ông siêu thoát, thơ ông nghiêng về mô tả nỗi đau, mô tả trăng. Những điều Hàn thể hiện trong thơ phần nhiều đều do bệnh tật ảønh hưởng.
Bệnh phong là căn bệnh mà vi trùng có thể xâm nhập hệ thần kinh, đặc biệt là thần kinh ngoại biên như thần kinh của chân tay, thần kinh cổ. Mỗi khi có sự hiện diện của vi khuẩn trong dây thần kinh, các tế bào có thẩm quyền miễn dịch (tức là tế bào bảo vệ, chống vi khuẩn) sẽ đến bao vây. Hậu quả là đường dẫn truyền của dây thần kinh bị tắc nghẽn, dây thần kinh sưng to và nếu không được điều trị , phía dưới khúc nghẽn sẽ bị hư hại và đó là nguồn gốc của sự tàn phế. Ngày nay, để giải quyết những cơn phản ứng làm dây thần kinh sưng to, người ta dùng loại thuốc làm giảm khả năng hoạt động của các tế bào miễn dịch, chủ yếu dùng Corticoide. Nhưng thời đó, cả thuốc chống phong lẫn Corticoide đều chưa được phát minh, những người mắc bệnh phong phải chịu cả hai hậu quả do cơn phản ứng gây nên: đó là nỗi đau đớn đến cùng cực và sự tê liệt các dây thần kinh mà hậu quả sau cùng là mất cảm giác.
Cơn đau do viêm dây thần kinh là cơn đau rất sâu, nhức buốt ngày này qua tháng khác. Trong quá trình điều trị cho người bệnh trong những năm gần đây tại Bệnh viện phong Quy Hoà, mặc dầu đã cho bệnh nhân thuốc giảm miễn dịch, thuốc giảm đau nhưng phần lớn người bệnh trong cơn phản ứng đều không chịu đựng nổi. Họ phải vật lộn, cắn xé và có người đã tự tử. Với Hàn Mặc Tử, năm 1938, 1939 là những năm ông đau dữõ dội nhất. Chúng ta có thể thấy nhà thơ phản ánh nỗi đau ấy khá rõ trong thơ mình. Theo ông Nguyễn Bá Tín, trong thời kỳ này, ông sống nửa mơ nửa thật, có lúc mơ mơ không biết gì. Tuy nhiên, Hàn âm tầm chịu đựng nỗi đau để rồi có lúc ông quằn quại trong thơ qua các bài Cô Liêu, Những giọt lệ, Hồn là ai với những đoạn:
Hồn đã cắn, đã cào nhai ngáu nghiến
Thịt da tôi sượng sần và tê điếng
Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên
Ông sống trong hoản loạn, đau đớn như có một bóng ma luôn ám ảnh và cảm thấy cô đơn đến tột cùng. Nhiều bài thơ ông viết trong thời điểm ấy, khi đọc lên giúp ta hiểu rõ tâm trạng ông:
Tôi vẫn còn đây hay ở đâu
Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu
Sao bông phượng nở trong màu huyết
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu
Ngày nay, trước những đau đớn, người ta phải tìm đến thuốc giảm đau, thuốc an thần. Vào thời điểm đó, người ta phải tìm cho mình con đường riêng để thoát ra khỏi thực tại. Những lúc quá đau đớn, Hàn Mặc Tử đã thoát vào thơ, biến đổi cõi thực sang cõi mộng. Ông mơ mình đang sống trong cõi tiên và đã giúp ông sáng tác Quần-tiên-hội cùng mối tình huyền hoặc với Thương Thương. Và những khi từ mộng quay về thực, khoản nghĩ hiếm hoi giữa các cơn đau, ông sống thong dong bình tĩnh với những vần thơ nhẹ nhàng, tình tứ không mang dấu ấn bệnh hoạn.
Sao anh không về chơi thôn Vỹ
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che nghiêng mặt chữ điền
Có một điều rất dễ nhận thấy trong thơ Hàn, đó là ông viết rất nhiều vế trăng.
Trong vườn đêm ấy nhiều trăng quá
Nàng cũng trăng mà ta cũng trăng
Hoặc:
Trăng nằm sóng sõai trên cành liễu
Đợi gió thu về để gió rơi
Hoặc:
Ô kìa bóng nguyệt trần truồng tắm
Lộ cái khuông vàng dưới đáy khe
Nhiều người thấy tần số những câu thơ, bài thơ về trăng xuất hiện khá nhiều trong thơ Hàn, nên đã đặt câu hỏi, trăng có ảnh hưởng gì đến bệnh tình của Hàn. Quá trình sáng tác của Hàn gắn liền với quá trình chịu đựng đau đớn nên có thể hiểu ông viết những bài thơ, vần thơ có trăng vào những đêm trăng sáng. Đặc điểm của bệnh phong là chỉ thương tổn những dây thần kinh ngoại vi (tay, chân, cổ), những nơi không có quần áo che phủ, hay nói cách khác những nơi có nhiệt độ thấp hơn nơi khác trong cơ thể. Những đêm trăng sáng, không khí lạnh hơn, những đêm không trăng hay trăng bị mây chia khuất. Đó chỉ là hiện tượng bức xạ nhiệt bình thường vì những trảng cát ở Quy Nhơn ban ngày hấp thụ nhiệt rất nhanh, ban đêm mất nhiệt cũng rất nhanh, tạo nên sự chênh lệch về nhiệt độ. Bên cạnh đó, Quy Nhơn nằm trong một thung lũng, ngày đón gíó biển, đêm gió núi thường rất lạnh. Vì vậy, những đêm trăng sáng, Hàn Mặc Tử phải chịu nổi đau nhiều hơn và do đó, tần số những ý thơ về trăng xuất hiện cũng nhiều hơn.
Nguồn trích: Văn hóa - Văn nghệ công an.- 1999.- Số 3 (2025)
KHPL: BĐ.04(91)
Chủ Nhật, 29 tháng 3, 2009
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét